Bàn luận: Kinh Thánh

4.6 Kinh thánh và Các Khoa học Phổ thông

              Người ta nói Kinh Thánh chỉ dành cho những người thiếu học thức, nhưng ít người biết đến chuyện trên mỗi con tàu vũ trụ đều có một cuốn Kinh Thánh thu nhỏ trên phim tiểu li (micro film) cho các nhà du hành vũ trụ đọc. Ḍng đầu tiên của Kinh Thánh có ghi: "Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên Trời và Đất.". Rất nhiều nhà du hành vũ trụ trở nên tin Chúa sau chuyến bay ngắn ngủi bên ngoài bầu khí quyển của Trái Đất. John Glen là người có vinh dự ngồi trên con tàu vũ trụ hai lần, lần thứ nhất lúc 36 tuổi và lần thứ hai lúc 70 tuổi, tâm sự: "Tôi đă làm ḥa với Đức Chúa Trời rồi.".

            Kinh Thánh không phải là quyển bách khoa toàn thư chứa đựng tất cả kiến thức khoa học, lịch sử, văn chương, luật pháp, tín ngưỡng, v.v.... Kinh Thánh là văn kiện của Đức Chúa Trời nói về nan đề lớn nhất của con người là tội lỗi và chương tŕnh cứu chuộc con người khỏi ṿng tội lỗi qua sự giáng trần, hi sinh và sống lại của Chúa Giê-su. Tội lỗi mang lại cho con người sự chia cách với Đức Chúa Trời và cái chết. Chúa Giê-su mang lại cho con người mối ḥa thuận với Đức Chúa Trời và sự sống đời đời. Trước khi Chúa Giê-su giáng trần, Đức Chúa Trời làm việc qua dân tộc Do Thái. Sau khi Chúa Giê-su rời trần thế, Đức Chúa Trời tiếp tục công tác qua Hội Thánh.  Tất cả các nhân vật, sự kiện lịch sử, tiên tri  được ghi trong Kinh Thánh với chỉ một mục đích tŕnh bày chân lư đó mà thôi. Hơn nữa, Kinh Thánh phải được viết theo cách mà người thường có thể đọc và hiểu, dù họ sống cách đây 4000 năm hay sau này 40 thế kỷ.  Vậy nếu muốn t́m kiếm, chứng minh một định luật khoa học, chắc Kinh Thánh không phải là quyển đầu tiên để chúng ta nghiên cứu, t́m ṭi.

             Tuy nhiên, tất cả các khám phá của con người có được đều  do lư trí, trí tuệ và sức sáng tạo mà Đức Chúa Trời đă ban cho con người. Trong nhiều trường hợp, Ngài "mở óc", "làm sáng mắt" cho một số Nhà Khoa Học để những phát minh của họ đem lại phước hạnh cho nhân loại. Ví dụ: Niu-tơn khi quan sát trái táo rơi, đột nhiên phát hiện ra một trong những định luật quan trọng nhất của vũ trụ, Định Luật Vạn Vật Hấp Dẫn.

            Mặc dù không chứa đựng nhiều định luật khoa học, những điều được ghi lại giữa các trang của Kinh Thánh mà nhân loại mù tịt cho đến vài thế kỷ gần đây sẽ làm chúng ta hết sức ngạc nhiên. Xin hăy cùng tôi nghiên cứu một vài thí dụ.          

Kinh Thánh và H́nh Học

                Khi muốn tính chu vi đường tṛn, người ta đo đường kính rồi nhân nó với số Pi (3,14). Số Pi là một hằng số mới được biết tới trong thế kỷ mười chín, hai mươi, thế mà Vua Sa-lô-môn ( 970 năm trước Công Nguyên) đă biết một cách hết sức khoa học. Số Pi của ông được t́m ra trong Câu 23 Chương 7 Sách Các Vua Thứ Nhất là 3,14150943 -  so với số Pi chúng ta sử dụng là 3,1415926 ( sự sai trật là  0,0000 832  hay 0,00026 %). Vua Sa-lô-môn được Kinh Thánh cho biết là người thông minh nhất trên trần gian. Sự thông minh của ông là món quà mà Đức Chúa Trời ban cho khi ông cầu xin Ngài sự khôn ngoan để cai trị dân tộc ḿnh theo đường lối của Chúa. (Xem thêm phần Phụ Lục)

Trích dẫn: Http://vi.wikipedia.org/wiki/Pi Hai bài thơ trong Kinh thánh Hebrew (được viết giữa thế kỉ 8 và thế kỉ 3 tr.CN) mô tả một hồ nước dùng trong nghi lễ tại Đền Solomon có đường kính 10 cubit và chu vi 30 cubit, bài thơ ngụ ư rằng \pi bằng 3 nếu hồ có h́nh tṛn. Học giả người Do Thái Rabbi Nehemiah giải thích sự sai khác nằm ở độ dày của hồ” –

            Kinh Thánh và Thiên Văn Học

Về Thiên Văn Học, cho đến khi ống kính viễn vọng ra đời,  người ta chỉ biết được khoảng 1000 ngôi sao. Thế mà Tiên Tri Giê-rê-mi (khoảng 550 năm trước Công Nguyên) viết trong Kinh Thánh rằng: "Người ta không thể đếm các cơ binh (v́ sao) trên trời được" (Sách Giê-rê-mi Chương 33 Câu 22). Ngày nay, nhờ kính thiên văn viễn thông đặt ngoài bầu khí quyển người ta đă quan sát được 400 tỷ ngôi sao trong Giải Ngân Hà và ngoài Giải Ngân Hà của chúng ta ra c̣n có hàng trăm tỷ Giải Ngân Hà khác nữa. Mỗi một ngôi sao mà chúng ta nh́n thấy bằng mắt thường có thể là một Ngân Hà xa xôi hàng tỷ năm ánh sáng. Đức Chúa Trời chẳng sáng tạo ra chúng một cách ào ào, vô tội vạ, nhưng Ngài  c̣n "đếm số các v́ sao và gọi từng tên hết thảy các vị ấy" (Sách Thi-Thiên Chương 147 Câu 4). Điều ấy thật quả là khó tin cho trí óc con người , nhưng đă là Đức Chúa Trời, có điều chi quá khó đối với Ngài.

            Tiên Tri A-mốt viết rằng: "Hăy t́m Đấng đă dựng nên Sao Rua và Sao Cày." Trong tiếng Do Thái là thứ tiếng được dùng để sao chép nguyên bản Kinh Thánh, câu này được đọc như sau. "Hăy t́m Đấng đă dựng nên Bảy Ngôi Sao và sao Cày". Bảy ngôi sao chính là chùm Sao Rua (Pleades). Bằng mắt thường người ta chỉ thấy được sáu ngôi sao. Chính v́ vậy mà các nhà dịch Kinh Thánh cảm thấy rất khó  dịch câu này. Măi đến khi các nhà thiên văn có được kính viễn vọng tối tân, họ mới phát hiện ra ngôi sao thứ bảy. Vậy làm sao một người chăn cừu sống 25 thế kỷ trước đây có thể nói về Đấng làm ra bảy ngôi sao một cách mạnh bạo như vậy? Hay là Đức Chúa Trời phán qua môi miệng của ông rồi được ông chép vào Kinh Thánh?

             Trong khi người đương thời tin rằng Trái Đất đứng trên lưng bốn con voi, bốn con voi ấy lại đứng trên lưng một con rùa. Họ c̣n tin rằng Trái Đất phẳng như cái đĩa và các thủy thủ chẳng dám đi xa v́ sợ rơi ra khỏi mép đĩa.  Vậy Kinh Thánh nói ǵ về vị trí và h́nh dạng của Trái Đất? Ông Gióp, một tôi tớ của Đức Chúa Trời sống cách đây 4000 năm đă tuyên bố: "Chúa treo Trái Đất trong khoảng không không." (Sách Gióp, Chương 26 Câu 7).  700 năm trưóc CN  tiên tri Ê-sai  đă mô tả về Đức Chúa Trời: "Ấy là Ngài ngự trên ṿng Trái đất này" (Sách Ê-sai Chương 40 Câu 22) Trong nguyên bản của tiếng Do Thái, chữ ṿng không mang ư nghĩa ṿng tṛn, nhưng mang ư nghiă quả cầu tṛn. Phải chăng Kinh Thánh cho biết Trái Đất là một quả cầu tṛn treo lơ lửng trong khoảng chân không trong vũ trụ bao la trước khi các nhà thiên văn Âu Châu biết được điều ấy.

            Trong Sách Thi-Thiên, Chương 19 Câu 6 nói rằng: "Mặt Trời ra từ phương trời này chạy giáp ṿng đến phương trời kia." Có người hỏi vặn: "Kinh Thánh nói sai rồi. Bây giờ con nít ai cũng biết Mặt Trời đứng yên, c̣n Trái Đất chuyển động ṿng quanh mặt Trời". Vậy xin quan sát cuộc hội thoại giữa hai Nhà Khoa Học trong giờ giải lao bên cạnh ly cà phê. Một người nói  "Sáng nay, trên đường đến viện nghiên cứu tôi thấy cảnh Mặt Trời mọc thật huyền diệu". Người kia hưởng ứng: "Tôi ra khỏi nhà hơn muộn nên không thấy Mặt Trời mọc, tuy nhiên chiều hôm qua  đi dạo chơi với vợ,  tôi chứng kiến cảnh Mặt Trời lặn hết sức thơ mộng." Giả sử đứng bên cạnh họ, chắc ǵ tôi dám mở miệng phê b́nh: "Các ông nói sai rồi. Chính xác ra các ông phải nói là hôm nay khi Trái Đất quay ṿng xung quanh Mặt Trời ở thời điểm 5 giờ 15 phút sáng, tôi thấy bầu khí quyển có nhiều màu sắc hồng hồng ...".  Nói vậy có lư mà không có t́nh, người ta đang uống cà phê và nói chuyện đời sống chứ đâu phải đang bảo vệ luận án. Cũng vậy, Kinh Thánh được viết bằng ngôn ngữ  mà người thường có thể hiểu được sự thật tâm linh  chứ không phải để tranh luận khoa học.

            Tuy nhiên, dù Kinh Thánh nói rằng Mặt Trời chuyển động cũng không sai. Bởi khi Niu-tơn đứng trên Trái Đất, ông nói rằng quả táo rơi xuống ông. Giả sử ông đứng trên quả táo, ông sẽ nói Trái Đất rơi xuống quả táo. Vận  chuyển là khái niệm tương đối tùy theo người quan sát lấy ǵ làm mốc. Hơn nữa, những ai cứ khăng khăng bắt bẻ Kinh Thánh ở điểm này xin nhớ rằng dù Trái Đất xoay xung quanh Mặt Trời, Mặt Trời cũng không đứng yên nhưng di chuyển với một vận tốc một triệu cây số một giờ trong Giải Ngân Hà, và Giải Ngân Hà cũng không đứng yên lặng trong vũ trụ bao la. Con người nhỏ bé không thể quan sát được điều đó nhưng Đấng Làm Ra Vũ Trụ chẳng nhầm lẫn ghi Ngài viết Kinh Thánh qua tay các Tiên Tri.

            Lại có người hỏi: "Kinh Thánh cho biết ngày đầu tiên Đức Chúa Trời dựng nên Trời, Đất và ánh sáng; Ngày thứ hai, Ngài chia nước ra trong thể lỏng và thể khí; Ngày thứ ba, Ngài tạo ra thế giới thực vật. Măi đến ngày thứ tư mới có Mặt Trời. Nếu vậy th́ ánh sáng trong ngày đầu tiên đến từ đâu? Làm sao cây cỏ có thể quang hợp được khi chưa có Mặt Trời?". Về điều này Kinh Thánh cũng chẳng sai. V́ sao cây cỏ có trước Mặt Trời một ngày chẳng ai biết, nhưng chắc chắn rằng  chúng có thể sống trong bóng tối một ngày mà không có ǵ nguy hại xảy ra. Thực t́nh, chúng chẳng sống trong bóng tối. Ngay trong ngày đầu tiên, Đức Chúa Trời đă tạo ra ánh sáng và đặt ra quy luật luân hồi giữa ánh sáng và bóng tối để có ngày và đêm. Ánh sáng không nhất thiết phải đến từ Mặt Trời. Ánh sáng là một h́nh thức của năng lượng. Trong những ngày đầu tiên, ánh sáng có thể được trực tiếp biến hóa từ nguồn năng lượng bao quanh Trái Đất...   Trong màn đêm của bầu trời Bắc Cực và Nam Cực, người ta quan sát thấy những giải ánh sáng nhiều màu sắc rất đẹp, nhảy múa như có một bàn tay vô h́nh  cầm một giải lụa khổng lồ vẫy lên vẫy xuống. Ánh sáng ấy gọi là  vầng cực quang. Chẳng ai biết vầng cực quang h́nh thành cách nào. Có lẽ bầu khí quyển được i-on hóa bởi từ trường. Người ta biết từ trường của Trái Đất đang giảm dần, vậy trong thời điểm đầu tiên, vầng cực quang có thể mạnh đến nỗi chiếu sáng đến tận miền nhiệt đới. Trong cuộc sống hàng ngày cũng có những ví dụ về ánh sáng không đến từ Mặt  Trời, ví dụ ánh sáng trong đèn nê-ông, ánh  sáng của con đom đóm hay ánh sáng của các đám mây chứa tĩnh điện.

            Một trong những bằng chứng khác về việc Đức Chúa Trời  có thể tạo ra ánh sáng và sự tối tùy theo ư muốn là câu chuyện trong Sách Xuất Ê-díp-tô  Kư, Chương 10, Câu 21. Thời ấy ở Ai- cập, dân bản xứ thờ thần tượng Mặt Trời c̣n dân ngụ cư Do Thái thờ phượng Đức Chúa Trời. Để trừng phạt dân Ai Cập, Ngài khiến bóng tối dày đặc che phủ cả nước trong suốt ba ngày. C̣n vùng nào có dân Do Thái ở, vùng ấy vẫn có ánh sáng như thường... Về sau, khi dân Do Thái  rời Ai Cập để đi về Đất Hứa  (là xứ Pa-let-xtin ngày nay), quân đội Ai Cập đuổi theo để bắt họ quay về làm nô lệ. Đức Chúa Trời lại đặt một đám mây giữa hai phe. Phía bên  quân Ai Cập th́ bóng tối dày đặc bao phủ c̣n bên dân Do Thái  lại có ánh sáng. Câu chuyện này cũng được Khảo Cổ Học kiểm nghiệm những văn tự khắc trên  bia đá t́m thấy ở Kim Tự Tháp Ai Cập.          

            "Ta là Đức Giê-hô-va (Đấng Tự Hữu Hằng Hữu), không có Đấng nào khác (ngoài Ta).  Ấy chính Ta là Đấng gây nên sự sáng và dựng ra sự tối tăm, làm ra sự b́nh an và gây nên tai vạ. Chính Ta là Đức Giê-hô-va, đă làm nên những sự đó." (Sách Ê-sai Chương 45 Câu 7)

            Kinh Thánh và Khí Tượng Học         

    Nói về Khí Tượng Học, chúng ta biết về ṿng luân hồi của nước. Nước theo sông chảy ra biển, nước biển bốc hơi và được gió đưa về đất liền, biến thành mưa và rơi xuống. Đây là phát hiện của khoa học thế kỷ 20, thế mà khoảng 900 trước Công Nguyên,  Sa-lô-môn đă viết bài thơ: "Gió thổi về hướng Nam kế sang hướng Bắc. Nó xoay đi quần lại không ngừng, rồi trở về ṿng cũ của nó. Mọi sông đều đổ ra biển song không hề làm đầy biển, nơi mà sông suối ra đi, nơi đó nó lại chảy về lại... (Sách Truyền Đạo, Chương 1 Câu 6-8). Nếu đă ngạc nhiên về sự hiểu biết của Sa-lô-môn trước đây 30 thế kỷ, chúng ta sẽ càng kính nể hơn sự tỏ tường của Ê-li-hu là người sống cách đây bốn ngàn năm: "Đức Chúa Trời là cực đại, chúng ta không (thể) biết được Ngài. Số năm Ngài thọ không ai đếm được. V́ Ngài thâu hấp các giọt nước. Rồi từ sa mù mà giọt nước ấy biến ra mưa. Có ai hiểu được cách mây giăng ra và (hiểu được) tiếng (sấm sét) lôi đ́nh của nhà trại Ngài... " và "Ngài ém nước trong các áng mây Ngài. Mà các áng mây không bị bứt ra v́ nước ấy" (Sách Gióp Chương 36 Câu 26, 27, Chương 26 Câu 8),

            Có một giáo sư tuyên bố trước sinh viên của ḿnh: "Bây giờ khoa học đă phát triển, kỹ nghệ trở nên vô cùng hữu dụng, nhân loại chẳng cần đến Đức Chúa Trời nữa. Nếu muốn có mưa, các Nhà Khoa Học đem máy bay lên không trung, rải hóa chất xuống đám mây là có mưa ngay. Cầu nguyện th́ đến bao giờ mới có mưa?" Mọi người nghe đều cảm thấy có lư. Tuy nhiên, có một sinh viên mạnh dạn giơ tay xin hỏi: "Vậy thưa Giáo Sư, giả sử Đức Chúa Trời không làm ra đám mây và đem đám mây ấy đến những nơi cần có mưa, các Nhà Khoa Học lấy mây ở đâu để làm mưa nhân tạo?" Há miệng mắc quai, xin chúng ta h́nh dung ra nét mặt lúng túng của vị Giáo Sư đáng thương kia.          

            Nói về Hải Dương Học, măi đến năm 1786, các Nhà Khoa Học mới phát hiện ra các ḍng nước biển. Thế mà một ngàn năm trước Công Nguyên , Vua Đa-vít đă viết trong Kinh Thánh: "Chim trời và cá biển cùng phàm vật ǵ lội đi các lối biển." (Sách Thi Thiên Chương 8 Câu 8.) Các lối biển có nghĩa là các đường đi trên biển hay ḍng nước biển. Các con chim di dân dựa vào ḍng nước biển để bay xuống phương Nam trú ngụ qua mùa Đông. Các con cá hồi sinh ra ở trên núi, sống ở ngoài biển, cứ sau bốn năm nó lại theo ḍng nước biển để t́m cửa sông rồi bơi ngược theo ḍng sông về núi để đẻ trứng. Điều ấy quả thật là sự kỳ diệu. Ông Gióp, một người sống cách đây 4 ngàn năm c̣n viết về các nguồn suối nước phun lên từ đáy biển: "Chớ th́ ngươi có thấu đến nguồn của biển sao?  Há ngươi có bước dưới đáy của vực sâu chăng." (Sách Gióp Chương 38 Câu 16.). Hải Dương Học thế kỷ hai mươi cũng đă xác nghiệm hiện tượng kỳ lạ này.

            Cũng ông Gióp ấy, người chăn cừu tầm thường sống ở vùng Trung Cận Đông sa mạc nóng hừng hực quanh năm, làm sao ông có thể biết được việc có những nơi trên thế giới được băng đá bao phủ một cách vĩnh cửu. Nếu lượng nước đá ở Nam Cực, Bắc Cực và Băng Đảo (Greenland) tan ra, mực nước biển trên thế giới sẽ được nâng lên vài chục mét. Ông viết: "Nước đá bởi ḷng của ai (mà sinh ra), ai đẻ ra sương móc của Trời? Nước đóng lại như đá và ẩn bí, mặt vực sâu trở nên thành cứng..." (Sách Gióp Chương 38 Câu 29-30). Thật chẳng có cách ǵ giải thích được sự hiểu biết của Gióp ngoài việc Đức Chúa Trời "mở óc" cho ông.

            Kinh Thánh và Y  Học           

            Nói về Y học, cho đến hai thế kỷ gần đây, người ta không biết đến tầm quan trọng của việc vệ sinh dịch tễ. Khi đi tham quan các lâu đài lộng lẫy của vua chúa, chúng ta hăy để ư thấy xem có mấy buồng tắm? Ít lắm. Người ta không biết tầm quan trọng của việc làm sạch nơi ăn chốn ở, cách ly người bệnh, rửa tay sau khi động vô rác rưởi và xác chết. Người ta không biết đến sự nguy hại khi không uống nước nơi  ứ đọng  hoặc ăn động vật đă chết. Người ta không biết cách trị bệnh phong, bệnh hủi , không biết cách kiêng cữ sinh lư khi phụ nữ có kinh hay sau khi sinh đẻ, v.v...  Tất cả những thực hành trên đă được chép trong Kinh Thánh cách đây 3500 năm.  Kinh Thánh chẳng nói ǵ về vi trùng, vi khuẩn, nhưng nếu ai đọc và làm theo Kinh Thánh sẽ được đảm bảo sức khỏe một cách khoa học.


Xem tiếp: Vật lư

Tác giả và  người viết | Sự tồn tại và phổ biến | Lịch sử và tiên tri | Luật pháp | Khảo cổ
Khoa học phổ thông | Vật lư | Di truyền | Nhân chủng học | Thời gian | Tin học |
Chương tiếp