Một số bài của tiến sỹ Ân Điển |
Sáng Thế Kư dưới lăng kính khoa học | T́m hiểu Đấng Sáng Tạo | Thông điệp từ trời | Khoa học và niềm tin | Tiến hóa hay Sáng tạo | THỊ GIÁC | Vũ Trụ Có Khởi Thủy Không
Sáng Thế Kư có thể nói là một trong những sách lâu đời nhất của Thánh kinh nhưng có giá trị quan trọng hàng đầu. Chữ Sáng Thế Kư theo nguyên văn tiếng Hy bá (Hebrew) ‘bereshith’ có nghĩa là khởi nguyên. Sáng Thế Kư tường thuật lại căn nguyên của vũ trụ, của con người, và của mọi sinh vật sống. Hơn nửa lịch sử nhân loại được chép lại chi tiết trong năm mươi chương của sách. Sáng Thế Kư chứa đựng những chân lư làm nền tảng cho triết lư, đạo đức, và tín lư thần học căn bản. Sách Sáng Thế Kư cho biết bản chất thiêng liêng bất diệt của linh hồn, tương quan mật thiết giữa loài người và Thượng đế, bản chất và căn nguyên của sự cám dỗ, tội lỗi, tội ác, và sự cần thiết của chương tŕnh cứu chuộc của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Sáng Thế Kư là một trong Ngũ kinh do Môi se nhận được mặc khải của Thiên Chúa viết lại cách đây khoảng hơn 3400 năm. Mặc dầu được viết lại với ngôn ngữ phổ thông, giản dị, dễ hiểu, thích hợp cho mọi chủng tộc, mọi văn hóa từ mọi thời đại, những chi tiết của Sáng Thế Kư có liên quan đến lịch sử và khoa học được ghi lại khá tường tận, có thể được kiểm chứng bởi những khám phá của khoa học. Bài viết sau đây so sánh và đối chiếu một số dữ kiện quan trọng trong chương đầu của Sáng Thế Kư với những khám phá mới nhất của khoa học hiện đại, đặc biệt là thiên văn học, vật lư, hóa học, sinh vật học phân tử, di truyền học, và nhân chủng học.
Buổi ban đầu "Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên Trời Đất"(1:1). Lời tuyên ngôn tuy ngắn gọn nhưng ư nghĩa vô cùng sâu xa trong câu mở đầu của Sáng Thế Kư. Câu này cho biết cả thế gian có (1) buổi ban đầu, và (2) do Thiên Chúa tạo dựng.
(1) Thế giới có khởi nguyên: Vào khoảng đầu thế kỷ 20, nhiều nhà khoa học tin rằng vũ trụ không có khởi thủy, không thay đổi (steady state), và không có tận chung. Tuy nhiên một số khám phá quan trọng trong ngành thiên văn từ năm 1913 đến nay cho thấy rằng vũ trụ có khởi đầu. Năm 1913, Vesto Slipher khám phá các thiên hà dịch chuyển xa khỏi trái đất với tốc độ khoảng hai triệu dặm một giờ. Những khám phá sau đó của Edwin Hubble cho thấy rằng các thiên hà càng xa nhau càng dịch chuyển với tốc độ càng lớn, chứng tỏ cả vũ trụ đang bành trướng và có khởi thủy cách đây không lâu. Từ đó các nhà khoa học có thể đi ngược ḍng thời gian để t́m hiểu cấu trúc của vũ trụ lúc ban đầu. Gần đây hơn, Arno Penzias và Robert Wilson (1965) khám phá sự tồn tại của tia bức xạ vũ trụ (cosmic bacground radiation) cho biết vũ trụ bắt đầu với một vụ nổ lớn (Big Bang) cách đây khoảng 15 tỉ năm. Những khám phá khác trong ngành vật lư nguyên tử, nhiệt động học, phóng xạ, vật lư hạch tâm trong những năm gần đây cũng cho biết rất chính xác từ tuổi của hàng triệu ngôi sao cho đến tuổi ngân hà, thiên hà, supernova, và tuổi vũ trụ. Tất cả những khám phá trên đều cho biết vũ trụ rất bao la nhưng có buổi ban đầu.
(2) Thế giới được thiết lập một cách siêu nhiên và có mục đích: Các khám phá khoa học trong ngành vật lư hạt cơ bản cho biết có sự tương quan rất chặt chẽ giữa các hằng số trong định luật khoa học và sự h́nh thành sự sống. Giáo sư John Wheeler của đại học Princeton cho biết rằng trong thế giới vĩ mô, lực hấp dẫn và lực điện từ được quân b́nh một cách chính xác để vũ trụ vẫn tồn tại sau hơn mười tỉ năm. Nếu những lực này chỉ xê xích một chút, vũ trụ sẽ ph́nh nở quá nhanh hoặc sụp đổ trong thời gian ngắn, không thể tạo nên môi trường thích hợp cho sự sống nảy sinh. Trong thế giới vi mô, cấu trúc của phân tử, nguyên tử, hạt nhân, điện tử cũng được thiết kế một cách chính xác để tạo nên phân tử bền vững là thành phần cơ bản cho sự sống. Từ lực điện từ cho đến lực tương tác yếu, tương tác mạnh, khối lượng và số lượng proton, neutron, electron, tất cả đều được thiết kế một cách quân b́nh và chính xác để tạo nên những tương tác hóa học và hỗn hợp các nguyên tố từ nhẹ như hydrogen tới nặng hơn như carbon, nitrogen, phosphorus, làm nền tảng cho sự sống. Cho đến năm 1993, các nhà khoa học xác nhận có khoảng 25 hằng số và định luật vật lư căn bản trong vũ trụ được coi là bất di bất dịch. Nếu một trong những hằng số hoặc định luật này chỉ xê dịch một chút, thế giới sự sống sẽ không thể h́nh thành. Những hằng số và định luật này được thiết kế chính xác hơn bất cứ một dụng cụ tối tân con người có thể làm ra. Ba trong hai mươi lăm hằng số này nếu chỉ xê xích một phần 1037, thế giới này sẽ không thể nảy sinh hoặc duy tŕ sự sống. Như vậy khoa học chứng minh vũ trụ đă được thiết kế một cách mầu nhiệm bởi một Đấng Sáng Tạo khôn ngoan nhằm duy tŕ và phát triển hoạt động của mọi sinh vật sống trong đó có con người.
"Vả, đất là vô h́nh và trống không, sự mờ tối ở trên mặt vực; Thần của Đức Chúa Trời vận hành trên mặt nước"(1:2). Câu này mô tả t́nh trạng trống vắng và mờ tối của trái đất lúc ban đầu. Khoa học xác nhận h́nh ảnh này phù hợp với t́nh trạng ban đầu của địa cầu. Các nhà thiên văn vào cuối thập niên 1970 khám phá rằng mọi hành tinh đều bắt đầu bằng lớp khí quyển dầy đặc bao gồm hỗn hợp khí hydrogen, helium, methane, và ammonia. Hỗn hợp khí lúc ban đầu xoay vần xung quanh một ngôi sao trẻ theo h́nh đĩa, dần dần kết tụ trở nên những hành tinh tạo nên một hệ thống tương tự như thái dương hệ. Từ năm 1994 đến nay các nhà thiên văn khám phá trên mười hệ thống quỹ đạo giống như thái dương hệ. Một số hành tinh như Mộc tinh và Thổ tinh vẫn c̣n giữ lại lớp khí quyển mờ đục ban đầu. Chính lớp khí quyển dày đặc ngăn cản không cho ánh sáng mặt trời xuyên qua bề mặt của địa cầu, tạo nên t́nh trạng tối tăm trong thời kỳ phôi thai. Bề mặt địa cầu lúc bấy giờ được bao quanh bởi nước, là phân tử phong phú nhất hiện diện trong vũ trụ. Những nghiên cứu gần đây xác nhận mặt nước thật sự bao phủ toàn bộ vỏ địa cầu lúc ban đầu. Mặt đất chỉ xuất hiện sau thời kỳ hoạt động mănh liệt của núi lửa (vulcanism) và địa chấn (plate tectonics).
Ngày thứ nhất
"Đức Chúa Trời phán rằng: Phải có sự sáng, th́ có sự sáng. Đức Chúa Trời thấy sự sáng là tốt lành, bèn phân sáng ra cùng tối. Đức Chúa Trời đặt tên sự sáng là ngày; sự tối là đêm. Vậy có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ nhất"(1:3-4). Một số dữ kiện khoa học cho biết có sự va chạm giữa mặt trăng và trái đất lúc ban đầu. Các nhà thiên văn nhận thấy mặt trăng và trái đất không có chung một hóa chất cấu tạo, mặt trăng trẻ hơn trái đất khoảng 300 triệu năm, và mặt trăng đang di chuyển xa khỏi trái đất. Các khoa học gia cho biết mặt trăng chạm mặt đất cách đây khoảng 4.25 tỉ năm. Nhờ có sự va chạm này, một số lớn khí quyển dày đặc và mờ đục bao quanh trái đất lúc ban đầu bị hất văng khỏi trái đất, để lại một lớp khí quyển mỏng, nhẹ và trong suốt hơn, nhờ đó ánh sáng mặt trời có thể xuyên tới bề mặt địa cầu. Theo ước tính, hành tinh càng nhỏ lớp khí quyển càng dày. Nếu như không có sự va chạm này, bề mặt của trái đất được bao quanh bởi lớp khí dày đặc hơn và nặng hơn như của Vệ tinh hiện nay, không cho phép ánh sáng xuyên qua. Nếu không có ánh sáng, sự sống không thể phát triển v́ hiện tượng quang hợp (photosynthesis) không thể xảy ra. Cũng nhờ có sự va chạm này, tốc độ chuyển động quay của trái đất được giảm tới mức độ vừa đủ để sinh vật cao cấp có thể tồn tại. Trục nghiêng của trái đất cũng được điều chỉnh đúng mức để điều ḥa khí hậu. Qua sự va chạm dung tích trái đất tăng lên đủ để duy tŕ lượng nước cần thiết cho sự sống nhưng không quá cao để các thán khí có hại cho sự sống như ammonia và methane bị giữ lại trong bầu khí quyển. Một số hợp chất nặng và phóng xạ từ mặt trăng được chuyển qua mặt đất qua sự va chạm, làm tăng nhiệt độ trái đất kích thích hoạt động núi lửa và địa chấn giữ cho nhiệt độ vỏ trái đất đúng mức duy tŕ sự sống. Có thể nói sự hiện diện của mặt trăng là một trong những huyền nhiệm mà Thiên Chúa sắp đặt để đem đến ánh sáng và tạo nên môi trường thích hợp cho sự sống trên trái đất.
Với ánh sáng mặt trời xuyên thấu bầu khí quyển chạm đến bề mặt trái đất, lần đầu tiên ngày và đêm được phân biệt do chuyển động quay của trái đất. Ánh sáng phân biệt ngày đêm như vậy không thể phát xuất từ trong ḷng đất, nhưng phải đến từ ngoài trái đất. Khoa học cho biết một ngôi sao có thể phát nóng và phát sáng khi đi hết tiến tŕnh tinh tú, tuy nhiên trái đất là một hành tinh nên không thể tự phát sáng, nhưng phải nhờ vào sự sáng của mặt trời. Nhờ ánh sáng này nhiệt độ mặt đất và bầu khí quyển được điều ḥa luân chuyển giữa ngày và đêm.
Ngày thứ hai
"Ngài làm nên khoảng không, phân rẽ nước ở dưới khoảng không cách với nước ở trên khoảng không"(1:7) . Khoa học cho biết trái đất là một trong những hành tinh rất đặc biệt trong vũ trụ mà nước hiện diện ở cả ba thể loại: hơi, lỏng, rắn. Chu kỳ nước được thiết lập trong ngày thứ hai không kém phần quan trọng so với sự xuất hiện của ánh sáng. Sau thời kỳ phôi thai, nhiệt độ trái đất giảm dần, mặt nước bốc hơi tạo nên một lớp hơi nước bao phủ trái đất. Khi nhiệt độ giảm thấp, hơi nước ngưng tụ thành mưa và đọng lại thành băng tuyết. Chu kỳ nước bốc hơi, lượng mưa rơi, lượng băng tuyết cô đọng một cách chính xác và điều ḥa giúp cho sự phát triển một cách phong phú của những sinh vật cao cấp. Chỉ cần lượng hơi nước thay đổi một ít, hiện tượng nhà kính (greenhouse effect) sẽ tạo nên băng giá trầm trọng hoặc làm cho bầu khí quyển quá nóng v́ giữ lại bức xạ nhiệt của mặt trời. Chu kỳ nước chính xác và bền vững do sự kết hợp quân b́nh của rất nhiều yếu tố hoàn toàn khác nhau: sức nóng bền vững của mặt trời, thành phần cấu tạo, nhiệt độ, và áp suất của bầu khí quyển, tốc độ gió, sức hút trái đất, ngay cả mưa vẫn thạch. Trong cuối thập niên 1990, các nhà khoa học phát hiện hiện tượng mưa vẫn thạch cung cấp vừa đủ lượng nước trái đất mất đi mỗi năm do sức hút khơng đủ mạnh của trái đất. Không có nước, các loài sinh vật phức tạp không thể tiếp tục những quá tŕnh sinh hoá chuyển tiếp giữa nước và đường, tinh bt, chất béo và đạm.
Ngày thứ ba
"Những nước ở dưới trời phải tụ lại một nơi, và phải có chỗ khô cạn bày ra"(1:9). Địa chất học cho biết trong suốt bốn tỉ năm đầu của trái đất, mặt đất trồi lên khỏi mặt nước từ 0 đến 29 phần trăm. Trong 250 triệu năm gần đây, liên lục địa (supercontinent) bị nứt rạn thành nhiều mảnh di chuyển theo nhiều hướng khác nhau tạo nên những thềm lục địa như hiện nay. Những trận động đất lớn đa số đều phát xuất từ sự cọ xát của những mảnh địa chấn này (plate tectonics). Các nhà khoa học ước tính rằng tỉ lệ 29 phần trăm đất liền và 71 phần trăm mặt nước là tỉ lệ lư tưởng tạo ra sự sống phong phú trên đất, vừa vặn để biển cả và sông ng̣i cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cho đất liền và đào thải chất cặn bă, tránh ô nhiễm môi trường.
"Đất phải sanh cây cỏ; cỏ kết ht giống, cây trái kết quả, tùy theo loại mà có ht giống trong ḿnh trên đất"(1:11). Nhờ có ánh sáng và hơi nước, các loài thảo mộc thô sơ được h́nh thành và phát triển. Khoa học cho biết các loài thực vật nguyên thủy có mặt trong thời kỳ Cambrian cách đây khoảng 500 triệu năm. Với sự xuất hiện của các loài thảo mộc, bầu dưỡng khí không c̣n bị tiêu hao đi sau năm tháng, nhưng trái lại được bù đắp vừa vặn, tạo nên lớp ozone đủ dầy để ngăn cản không để số lượng tia tử ngoại quá nhiều giết hại tế bào sống của các động vật cao cấp nhưng không quá dầy để thực vật có thể phát triển và những phản ứng tạo chất bổ (vitamin) cần thiết cho động vật được tiếp diễn nhờ sự kích thích của tia tử ngoại.
Ngày thứ tư
"Phải có các v́ sáng trong khoảng không ở trên trời, đặng phân ra ngày với đêm, và dùng làm dấu để định th́ tiết, ngày và năm"(1:14). Bầu khí quyển được chuyển biến từ trong mờ vào ngày thứ nhất cho đến trong suốt vào ngày thứ tư qua sự h́nh thành của lớp dưỡng khí và tiêu thụ lớp thán khí của loài thảo mộc vào ngày thứ ba, cộng thêm nhờ vào sự giảm bớt tầm hoạt động của núi lửa và sự suy yếu tốc độ gió khi tốc độ quay của trái đất bị giảm dần. Nhờ sự chuyển biến của bầu khí quyển, trong ngày thứ tư, mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao xuất hiện rơ trên bầu trời. Sự chuyển biến này đem lại bầu dưỡng khí trong lành và đầy đủ ánh sáng cần thiết cho chức năng hô hấp, bài tiết và tuần hoàn của những sinh vật cao cấp được dựng nên trong những ngày kế tiếp.
Ngày thứ năm
"Nước phải sanh các vật sống cho nhiều, và các loài chim phải bay trên mặt đất trong khoảng khơng trên trời"(1:20). Ngày thứ năm Thiên Chúa dựng nên các động vật biển và chim trời. Chữ các vật sống trong nguyên văn tiếng Hy bá lai ‘sheres’ có thể dùng để ám chỉ các loài cá, tôm cua, lưỡng thê. Những khám phá gần đây cho biết những động vật biển như cá voi có cách đây khoảng 50 triệu năm. Một số loài cá khác xuất hiện xa hơn cách đây khoảng hơn 100 triệu năm. Di tích hóa thạch của các loài chim khơng được đầy đủ, chỉ xuất hiện trong ṿng 80 triệu năm trở lại. Đa số những động vật xuất hiện trong ngày thứ năm là những động vật cần ánh sáng và vị trí của các thiên thể để điều chỉnh thời gian hệ thống sinh hóa trong cơ thể.
Ngày thứ sáu
"Đất phải sanh các vật sống tùy theo loại, tức súc vật, côn trùng, và thú rừng, đều tùy theo loại; th́ có như vậy"(1:24). Danh từ Hy bá lai để chỉ những động vật trong ngày thứ sáu là ‘remes’, ‘nephesh’, ‘chayyah’, ‘behemah’, ám chỉ những động vật có vú cao cấp bốn chân có lư trí, t́nh cảm, ư chí, có thể tương giao với loài người. Đây là những động vật được dựng nên để sống chung với loài người. Di tích hóa thạch cho biết những động vật này xuất hiện sau loài chim và cá.
"Đức Chúa Trời dựng nên loài người như h́nh Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như h́nh Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ"(1:27). Chữ ‘dựng nên’ trong nguyên văn Hy bá lai ‘bara’ cho biết loài người được Thiên Chúa tạo nên một cách đặc biệt hoàn toàn mới. Chỉ có loài người là loài duy nhất mang h́nh ảnh của Thiên Chúa. Những động vật dựng nên trước loài người có xác và hồn, chỉ có loài người mới có cả xác, hồn, và tâm linh. Nhờ có linh tánh của Thiên Chúa, con người là loài duy nhất có lương tâm, ư thức, có khả năng thờ phượng và tương giao với một Đấng thiêng liêng. Khoa nhân chủng học và khảo cổ học cho biết loài người biết sinh hoạt thờ phượng chỉ xuất hiện rất gần đây, trong ṿng khoảng từ 8000 đến 24000 năm trở lại. Những loài động vật hai chân có trước loài người như Neandertal xuất hiện cách đây khoảng vài trăm ngàn tới một triệu năm có khả năng âm nhạc và nghệ thuật, biết chôn cất và xử dụng dụng cụ, nhưng không có khả năng tâm linh. Di tích hoá thạch cho biết loài Neandertal bị diệt chủng trước khi loài người xuất hiện, và những nghiên cứu gần đây (1997) cho biết DNA của Neandertal hoàn toàn khác với DNA của loài người hiện đại, chứng tỏ loài người và Neandertal hoàn toàn không có chung nguồn gốc.
Ư nghĩa của ‘ngày’
Chữ ‘ngày’ (Hy bá lai: ‘yom’) dùng trong Sáng Thế Kư chương một có thể hiểu là một giai đoạn, hoặc một kỷ nguyên. Chữ ‘buổi chiều’ (‘ereb’) có thể dịch là chấm dứt một giai đoạn và ‘buổi mai’ (‘boqer’) có nghĩa là bắt đầu một giai đoạn mới. Theo nhà vật lư Gerald Schroeder của đại học MIT, chữ ‘ngày’ của Sáng Thế Kư chương một không thể hiểu là 24 giờ, bởi v́ trước khi loài người xuất hiện vào ngày thứ sáu, chỉ có Thiên Chúa hiện diện trong công cuộc sáng tạo. Theo thuyết tương đối của Einstein, Thiên Chúa vượt ngoài không và thời gian của thế giới mà Ngài dựng nên, do đó thời gian của Thiên Chúa không thể giống như thời gian của một quan sát viên trên mặt đất. Hơn nữa, với một vũ trụ đang ph́nh nở, không gian và thời gian quyện lẫn nhau tùy theo mật độ vật chất của vũ trụ, không thể có một đồng hồ chung cho cả thế gian từ lúc h́nh thành cho đến nay. Như vậy chữ ngày chỉ có thể dịch là một giai đoạn (có khởi đầu và kết thúc) trong tiến tŕnh sáng tạo.
Thuyết tiến hóa
Năm 1859, Charles Darwin xuất bản tác phẩm nhan đề "Nguồn gốc các loài" (The Origin of Species) bàn luận nội dung của thuyết tiến hóa mà về sau gây rất nhiều tranh luận trong giới khoa học. Trong năm chương đầu, Darwin đưa ra chứng cớ của tiến hóa vi mô (microevolution), cho thấy loài mới có thể xuất hiện từ loài có trước qua quá tŕnh chọn lọc tự nhiên, có nghĩa rằng thiên nhiên lựa chọn những thay đổi có lợi và đào thải những thay đổi không có lợi. Trong những chương sau đó Darwin thảo luận tiến hóa vĩ mô (macroevolut́on), cho rằng với thời gian đủ lâu, chọn lọc tự nhiên có thể dần dần đem lại sự khác biệt giữa mọi chủng loại của thế giới sinh vật. Thuyết tiến hóa có hàm ư sâu xa, nếu được kiểm nghiệm là đúng, có thể ám chỉ rằng các loài hiện diện trên mặt đất thực sự không do Thiên Chúa tạo dựng, nhưng chỉ nhờ các quá tŕnh thiên nhiên mà có. Lập luận của thuyết tiến hóa dựa vào ba giả thuyết:
(1) Tiến hóa giữa các loài là một quá tŕnh chậm và liên tục
(2) Phải có sự hiện hữu của loài chuyển tiếp (transitional species)
(3) Không có sự hiện hữu của những cấu trúc phức tạp không thể làm đơn giản hơn
(irreducibly complex structures)
Darwin công nhận sự vắng mặt của những loài chuyển tiếp trong thời ông, nhưng lư luận rằng số lượng di tích hóa thạch vào thời bấy giờ chưa được đầy đủ. Ông cũng công nhận rằng nếu trong tương lai có những khám phá của những cấu trúc phức tạp tối giản, lập luận tiến hóa sẽ hoàn toàn bị đánh đổ.
Trong những năm gần đây, đặc biệt chỉ trong ṿng hai thập niên cuối của thế kỷ hai mươi, với những khám phá của bộ môn di truyền học, sinh hóa học, và sinh vật học phân tử, các nhà khoa học lần lượt chứng minh cả ba giả thuyết của Darwin đưa ra là hoàn toàn sai lầm, và thuyết tiến hóa vĩ mô hoàn toàn vô căn cứ, không có chỗ dựa trong khoa học.
(1) Di tích hóa thạch cho biết các loài mới xuất hiện một cách đột ngột: Giáo sư Stephen Gould của đại học Harvard (1973) cho biết các loài mới với những h́nh thái hoàn toàn thay đổi xuất hiện một cách th́nh ĺnh trong những vùng cô lập (puntuated equilibrium). Sau đó những loài mới này phân tán ra địa dư rộng hơn và trải qua rất ít thay đổi. Có một khoảng cách và sự gián đoạn rất lớn giữa những loài mới và những loài cũ.
(2) Mặc dầu công cuộc lùng kiếm các loài chuyển tiếp với tầm mức ngày càng rộng lớn trong hơn một trăm năm qua, và có khoảng 99.9% công cuộc t́m kiếm hóa thạch được thực hiện từ năm 1860 tới nay với khoảng hơn một trăm ngàn hóa thạch được t́m thấy, các nhà khoa học vẫn không t́m ra các loài chuyển tiếp từ các loài thực vật cho đến động vật có xương sống, lưỡng thê, hoặc động vật không xương sống trong thời kỳ Cambrian. Nhà sinh vật học Robet Barnes (1980) kết luận rằng "di tích hóa thạch gần như hoàn toàn không cho ta biết ǵ về nguồn gốc tiến hóa của các chủng loại và các lớp. Loài chuyển tiếp không hiện hữu, không được khám phá, hoặc không được nhận diện."
(3) Những khám phá trong ngành sinh hóa học trong vài thập niên gần đây cho biết bất cứ một hệ thống sinh học nào có chứa đựng hơn một tế bào sống đều là một mạng lưới tinh vi phối hợp nhiều hệ thống vô cùng phức tạp khác nhau. Tế bào đơn giản nhất cũng có khả năng sản xuất hàng ngàn chất đạm và các phân tử khác nhau trong những điều kiện thay đổi. Khả năng tổng hợp, phân hóa, sản sinh và tích trữ năng lượng, sinh sản, duy tŕ, chuyển động, điều ḥa, sửa chữa, liên lạc, tất cả đều hiện diện trong mỗi tế bào, và mỗi chức năng đều cần sự tương tác giữa các bộ phận khác nhau. Hệ thống tế bào là một ví dụ điển h́nh của một hệ thống phức tạp không thể làm đơn giản hơn. Đó là một hệ thống bao gồm nhiều thành phần tương tác xứng hợp nhau mà nếu thiếu sót một trong những bộ phận này, cả hệ thống sẽ ngưng hoạt động. Một hệ thống như vậy không thể làm đơn giản hơn và không thể được tạo nên qua nhiều giai đoạn khác nhau nhưng chỉ có thể được thiết kế như một hệ thống hoàn chỉnh không bị chia cắt.
Trong thời Darwin, với những kính hiển vi thô sơ chỉ có thể phóng đại khoảng vài trăm lần, các tế bào sống chỉ giống những hạt hỗn mang di chuyển mọi hướng dưới ảnh hưởng của một số lực tương tác hỗn loạn vô h́nh. Ngày nay với khả năng phóng đại hơn một tỉ lần khiến mỗi tế bào tương tự như một thành phố lớn, các nhà khoa học khám phá cả một thế giới hoàn chỉnh và vô cùng phức tạp. Trên bề mặt tế bào có hàng triệu cổng ra vào, tại mỗi cổng có những ḍng thác vật liệu liên tục vào ra. Mỗi cổng ra vào là cả một thế giới kỹ thuật vượt bực và phức tạp không tiền khoáng hậu. Đó là những hành lang và ống dẫn đi mọi hướng, từ khuôn viên của tế bào đến trung ương dự trữ tin tức (memory bank), cho đến những dàn máy lắp ráp và bộ phận chế biến. Mỗi hạt nhân của tế bào là một ṭa nhà h́nh ṿm với đường kính hơn cây số, trong đó chứa đựng hàng dặm dây chuyền xoắn ốc của phân tử DNA xếp đặt ngay ngắn trật tự. Qua những ống thông một số lượng nguyên vật liệu khổng lồ được chuyên chở một cách rất trật tự tuyệt đối đến nhiều nhà máy lắp ráp khác nhau bên ngoài tế bào. Khoa sinh vật học phân tử ngày nay cho biết mỗi tế bào giống như một nhà máy tự động khổng lồ, to lớn như một thành phố và thực hiện nhiều chức năng với số lượng ngang ngửa với tất cả hoạt động sản xuất của loài người trên đất. Hơn nữa nhà máy này có thể tự sao chép lại toàn bộ hệ thống của chính ḿnh chỉ trong ṿng vài tiếng đồng hồ không một chút sai sót. Trong mỗi nhà máy tế bào có chứa đựng ngôn ngữ nhân tạo và hệ thống giải mă, những nhà băng chứa thông tin, hệ thống điều khiển một cách tinh vi những bộ phận lắp ráp tự động, dụng cụ pḥng ngừa sai trật hư hỏng và kiểm duyệt, quá tŕnh lắp ráp theo nguyên tắc xây dựng tiền chế (prefabrication and modular construction).
Hoạt động hiệu quả của tế bào một phần nhờ vào khả năng chứa đựng tin tức (information storage) của tế bào. DNA có khả năng chứa tin tức khổng lồ và vô cùng hữu hiệu đến nỗi nhà sinh vật học G.G. Simpson cho rằng tổng cộng mọi kiến thức cần thiết để thiết kế tất cả sinh vật sống trên đất có thể gồm tóm trong một th́a canh và vẫn đủ chỗ để chứa đựng những kiến thức của mọi quyển sách đă được viết. Những khám phá mới của các nhà sinh hóa học tại đại học Cambridge cho biết mật mă di truyền có tính cách gối lên nhau (overlapping) để giảm thiểu số lượng mă hóa. Một số chuỗi DNA có chức vụ quan trọng trong việc thâu hồi tin tức (information retrieval) không nằm cạnh những mật mă chúng điều khiển nhưng nằm quyện lẫn bên trong những mật mă đó. Các chất đạm (protein) cũng hoạt động vô cùng hữu hiệu. Nhiều chức năng protein được dồn chứa bên trong protein mẹ. Khi chức năng của protein mẹ hoàn tất, lập tức chia đôi thành hai protein khác với những chức năng khác. Cứ như thế các protein được phân hóa thành rất nhiều protein với những chức năng khác nhau. Điều này tương tự như một dụng cụ giải phẩu thu gọn, sau khi hoàn tất hoạt động đầu tiên, dụng cụ được chia ra làm hai dụng cụ khác cho những hoạt động kế tiếp, cứ như thế cho đến khi cuc giải phẩu chấm dứt. Với chức năng tổng hợp hiệu quả, protein không những chỉ có thể tự tổng hợp chính ḿnh, nhưng có thể tổng hợp bất cứ bộ máy sinh hóa nào khác dầu phức tạp đến đâu. Protein như một bộ máy chứa đựng khả năng kiến tạo bất cứ một vật sống từng hiện hữu trên đất, từ cây xanh cho đến bộ năo con người, tất cả mọi thành phần của bộ phận chỉ trong ṿng vài phút với trọng lượng chưa tới 10-16gram.
Di tích hóa thạch từ thập niên 1960 đến nay cho biết tế bào sống với cấu trúc cực kỳ phức tạp đồng loạt xuất hiện th́nh ĺnh cách đây khoảng 3.5 tỉ năm. Những nghiên cứu các lớp địa tầng cách đây khoảng 3.5 đến 3.9 tỉ năm cho thấy hoàn toàn vắng mặt bằng chứng của hỗn hợp hữu cơ vô sinh mà các nhà tiến hóa t́m kiếm như là chứng cớ của hệ thống chuyển tiếp từ vô cơ qua hữu cơ. Nhà tiến hóa Monod xác nhận rằng hệ thống sinh học đơn giản nhất, tế bào vi khuẩn, cũng có chức năng giống hệt tất cả mọi sinh vật sống khác. Những tế bào vi khuẩn này cũng chứa đựng cùng một mật mă di truyền và hệ thống giải mă như của tế bào trong cơ thể con người. Như vậy ngay cả tế bào đơn giản nhất cũng không có tính cách nguyên thủy hoặc có thể coi là tổ tiên của những tế bào khác.
Những nguyên cứu về DNA cho biết các chủng loại với h́nh thái khác nhau không có chung một hệ thống mật mă di truyền. Những mật mă di truyền có thể được phân loại theo định luật nhóm (group theory). Chủng loại khác nhau có mật mă di truyền thuộc những nhóm và lớp khác nhau, không thể lẫn lộn hoặc chuyển tiếp lẫn nhau. Do đó những dạng chuyển tiếp hoặc tổ tiên chúng không thể tồn tại. Nhà sinh vật học Beverly Halstead cho rằng không có chủng loại nào có thể được xem là tổ tiên của những chủng loại khác. Không có một bằng chứng nào cho thấy có sự tiến hóa từ cá đến lưỡng thê, ḅ sát, cho đến động vật có vú. Mật mă di truyền của loài người gần với loài cá miệng tṛn như là loài cá miệng tṛn gần với những loài cá khác. Không có loài động vật có xương sống nào có thể được coi là chuyển tiếp giữa loài có cằm và không cằm. Loài lưỡng thê, thường được coi là chuyển tiếp giữa cá và động vật có xương sống, có mật mă di truyền cách biệt với loài cá như bất cứ một loài đng vật có vú hoặc ḅ sát nào khác. Sự chia cách giữa các chủng loại có tính cách căn bản và tuyệt đối ở mức độ phân tử. Điều này giải thích lư do của sự thiếu vắng hoàn toàn các loài chuyển tiếp và phủ nhận giá trị của thuyết tiến hóa vĩ mô mà Darwin đưa ra cách đây hơn một thế kỷ.
Kết luận
Với sự tiến bộ vượt bực của khoa học hiện đại, đặc biệt trong ngành thiên văn, vật lư, hóa học, sinh vật học phân tử, địa chất học, khảo cổ học, nhân chủng học, Sáng Thế Kư chương một đă được kiểm chứng và xác nhận là hoàn toàn chính xác. Khoa học đă chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo khôn ngoan tuyệt đối và Thánh Kinh chính là lời mặc khải của Thiên Chúa cho loài người. Chính Thiên Chúa đă tạo dựng nên vũ trụ và thiết lập những định luật vật lư thích hợp cho sự sống muôn loài trong đó có con người. Cũng chính Thiên Chúa thiết kế sự sống kỳ diệu trên đất, tạo điều kiện để sự sống mọi loài phát triển một cách phong phú, nhưng phân định giới hạn giữa các chủng loài để đem lại trật tự và bền vững cho thế giới tự nhiên. Con người là loài duy nhất có khả năng tương giao với Thiên Chúa và cũng là tuyệt điểm trong công cuộc sáng tạo. Khoa học trong những năm gần đây đă đem lại bằng chứng rơ rệt nhất cho thấy cả thế giới hùng vĩ được thiết kế bởi Thiên Chúa siêu việt, cũng đưa con người đối diện trực tiếp với Ngài hơn bao giờ hết. Con người chỉ c̣n một lựa chọn: trở lại t́m kiếm, tôn thờ, và phụng sự Thiên Chúa là Đấng đă tạo nên ḿnh, làm tṛn bổn phận và chức vụ tâm linh mà Thiên Chúa đă giao phó và đặt để trong con người từ thuở ban đầu.
Nguyễn Lê Ân Điển, Ph.D.
San Jose 1/7/2002
Sách tham khảo
Behe, Michael, Darwin’s Black Box (New York: Simon and
Schuster, 1996)
Darwin, Charles, The Origin of Species (New York: Collier Books, 1962)
Davies, Paul, The Fifth Miracle (New York: Simon and Schuster, 1999)
Denton, Michael, Evolution: A theory in Crisis (Maryland: Adler and Adler, 1985)
Jastrow, Robert, God and the Astronomers (New York: Warner Books, 1978)
Ross, Hugh, The Genesis question (Colorado Springs: NavPress, 1998)
Ross, Hugh, The Creator and the Cosmos, Creation and Time (Colorado Springs:
NavPress, 1993)
Schroeder, Gerald, Genesis and the Big Bang (New York: Batam books, 1990
Sáng Thế Kư dưới lăng kính khoa học | T́m hiểu Đấng Sáng Tạo | Thông điệp từ trời | Khoa học và niềm tin | Tiến hóa hay Sáng tạo | THỊ GIÁC | Vũ Trụ Có Khởi Thủy Không
Từ lúc con người bắt đầu có ư thức về sự hiện hữu của bản thân và của tạo vật xung quanh, việc t́m kiếm nguyên do sự hiện hữu của thế giới ḿnh đang sống là lẽ tự nhiên. Bất cứ dân tộc nào trên thế giới, từ thời đại nguyên thủy cho đến hiện đại, bất cứ văn hóa nào, từ sơ khai đến văn minh tiến bộ, cũng có những sự tích bằng chuyện kể hay bài hát, để t́m hiểu nguồn gốc vũ trụ và con người. Con người từ mọi thời đại đă quan tâm đến căn nguyên của chính ḿnh, cũng như t́m kiếm, nếu có thể được, một Đấng Chân Thần, sáng tạo nên muôn loài vạn vật. Bài viết sau đây tóm lược một vài nét đặc biệt về nỗ lực của con người đi t́m một Đấng Sáng Tạo, đặc biệt trong lĩnh vực tôn giáo và khoa học.
Đi ngược lại ḍng lịch sử, những di tích văn hóa c̣n sót lại trong thời kỳ tiền sử cho thấy từ khi loài người biết suy tư, khài niệm về một Đấng Thần linh sáng tạo muôn loài và vận hành trong vũ trụ đă có ảnh hưởng sâu đậm trên đời sống thường nhật của xă hội loài người. Văn hóa Trung Quốc, một trong những nền văn hóa lâu đời nhất của nhân loại được ǵn giữ và bảo tồn không bị gián đoạn trên 4,500 năm, đă cho thấy sự quan tâm và tôn kính đối với một Đấng Thiêng Liêng tối cao. Khoảng trên 2,000 năm trước Thiên Chúa giáng sinh (B.C.), trước khi Khổng Giáo và Phật Giáo xuất hiện, nền văn hóa cổ kính này đă để lại những bằng chứng cho thấy người Trung Hoa thời thượng cổ đă tôn thờ một Đấng Tối cao gọi là 'Shang Ti', theo nghĩa tượng h́nh của chữ Shang Ti là 'Vua trên trời'. Họ không thờ phượng một Đấng nào khác hơn, và ǵn giữ nghiêm ngặt một truyền thống đạo đức duy nhất (John Ross, The Original Religion of China, pp 19, 20). Nền văn hóa cổ của người Trung Hoa với tôn giáo và phương thức thờ phượng độc thần (monotheistic) kéo dài trên 2,000 năm và sau đó đă bị thay thế bởi Khổng giáo (551 B.C.) và Phật Giáo (67 B.C.).
Nhắc đến văn hóa Trung Hoa cũng phải nói đến văn hóa Việt Nam, một nền văn hóa không kém lâu đời. Trước khi có chữ viết, theo khẩu truyền dân tộc Việt trong thời tiền sử, tức thời đồ đá được khai quật, đă bắt đầu nhắc đến một 'ông Trời', một Đấng quyền phép vô song ở trên cao, làm ra tất cả: trái đất, núi non, sông biển, mưa nắng, sinh ra tất cả: loài người, muôn vật, cỏ cây... Đặc biệt trong văn hóa dân tộc miền núi, chẳng hạn như thần thoại Mèo, đă kể lại sự tích tạo lập vũ trụ một cách chi tiết, rất giống sự tích sáng tạo của Thánh kinh trong sách Sáng Thế Kư. Thượng đế, c̣n gọi là 'chữ Làu', hoặc 'N đồ Chữ', sáng tạo trời đất trong bảy ngày, trời trước đất sau, trong đó loài người là tạo vật cuối cùng được dựng nên mà có khả năng tương giao trực tiếp với 'chữ Làu' (Hoàng Trọng Miên, Việt Nam Văn Học Toàn Thư, trang 127, 128).
Về phương diện ngôn ngữ học, danh từ 'God' trong ngôn ngữ cổ Âu-Ấn (Indo-European), xuất phát từ tiếng Germanic 'Gothic guth', có nghĩa là một h́nh ảnh qua đó một của lễ được dâng lên, đồng nghĩa với chữ 'huta' của tiếng Ấn Độ cổ. Văn hóa cổ Hy lạp và La mă đề cập đến nhiều thần thánh (gods), nhưng chữ 'deus', có nghĩa là 'Trời', được dùng để nói lên một quyền lực siêu phàm, tương tự như chữ 'devas' của Ấn Độ. Khi nhắc đến 'God', người ta muốn nói đến một thân vị siêu nhiên, có quyền năng vô hạn và khả năng điều khiển mọi việc theo ư muốn.
Đứng về phương diện khoa học, ngoại trừ những thập niên cuối của thế kỷ Hai Mươi, ít khi các khoa học gia công khai bàn luận đến khài niệm một Đấng Sáng Tạo, bởi v́ ngôn ngữ và phương pháp khoa học bị giới hạn trong phạm vi khảo sát và kiểm chứng. Tuy nhiên nguồn gốc của nền khoa học hiện đại Tây phương có thể nói bắt đầu từ triết học cổ Hy lạp, một nền triết học lâu đời tin tưởng vào một vũ trụ tinh vi, trật tự, và là một thể thống nhất. Các nhà triết học Hy lạp tin vào khả năng lư luận của trí tuệ, do đó đă để lại nhiều công tŕnh nghiên cứu có giá trị trong lĩnh vực toán học và h́nh học. Plato, một nhà triết học lỗi lạc người Hy lạp, trong tiểu thuyết 'Homer', đă đề cập đến một thân vị toàn hảo, khôn ngoan, không thay đổi và không lay chuyển. Một nhà triết học Hy lạp lỗi lạc khác là Aristotle cũng tin tưởng vào một trí tuệ siêu phàm, khôn ngoan hoàn hảo. Do đó theo quá tŕnh lịch sử phát triển của nền khoa học hiện đại, việc t́m hiểu thế giới tự nhiên là đi t́m giải đáp cho bài toán của vũ trụ đă được xếp đặt bởi bộ óc khôn khéo vô hạn của một Đấng Sáng Tạo.
Như đă đề cập đến ở trên, các khoa học gia trong những năm gần đây đă quan tâm và bàn thảo rất nhiều về vấn đề khoa học có thể liên hệ mật thiết với tôn giáo. Lần lượt các nhà khoa học có tên tuổi như Stephen Hawking, Frank Tipler, Paul Davies, Charles Townes, Henry Magenau, v.v... đă diễn thuyết cũng như viết sách thảo luận về đề tài khoa học nói ǵ về Thượng đế. Có thể nói khoa học hiện nay đang hướng về ngưỡng cửa tâm linh để t́m hiểu thế giới siêu h́nh qua lăng kính của vũ trụ học hiện đại (modern cosmology) và vật lư hạt cơ bản (elementary particles physics), hai bộ môn khoa học khá mời mẻ ra đời trong thế kỷ hai mươi.
Khi ngành vật lư hạt cơ bản ra đời, không ai có thể ước đoán được rằng con người rồi đây có thể ước định được tuổi của vũ trụ, giải thích cặn kẽ quá tŕnh h́nh thành và vận chuyển của các thiên hà, ngân hà, các v́ sao và các hành tinh của thái dương hệ. Các khám phá liên tục xác quyết bằng chứng của một vũ trụ có điểm khởi đầu và sự sắp đặt hài ḥa của một thế giời sinh động.
Trước tiên là khám phá của nhà vật lư thiên văn Edwin Hubble vào năm 1929. Theo nguyên lư dịch chuyển đỏ từ các phương tŕnh tương đối đặc biệt (special relativity) của Einstein, khi một vật di chuyển gần bằng tốc độ của ánh sáng phát ra một tín hiệu ánh sáng về phía một người đứng yên (rest observer), người quan sát viên đứng yên sẽ nhận được cùng một loại tín hiệu, nhưng với bước sóng dài hơn (red-shifted). Hubble quan sát rằng tất cả các thiên hà (galaxies) đang di chuyển khỏi thiên hà chúng ta với một tốc độ khủng khiếp, và các thiên hà ở càng xa th́ có vận tốc càng lớn. Tính ngược lại theo ḍng thời gian, khởi điểm của vũ trụ có thể nói bắt đầu cách nay khoảng 15 tỉ năm.
Tiếp theo sau khám phá của Hubble là khám phá của Arno Pelziac và Robert Wilson vào năm 1965. Khi hai ông này hướng máy ḍ vi ba (microwave detector) phát minh từ hồi đệ nhị thế chiến lên bầu trời, hai ông phát hiện vũ trụ từ mọi hướng tràn ngập một luồng sóng vi ba tương ứng với nhiệt độ -270 độ Celsius. Điều duy nhất có thể tạo nên hiện tượng 'microwave background radiation' này là cả vũ trụ bắt đầu như một khối lỏng thống nhất cô lập (primordial soup) với một mật độ tỉ trọng vô hạn (infinite density). Vào một thời điểm thời gian = 0, không gian= 0, khối lỏng này đă bị nổ tung (big bang), và vật chất từ trong đó bị phân tán đi mọi phía, trong đó có chiều thời gian quyện lẫn với chiều không gian, theo phương tŕnh tương đối mở rộng (general relativity) của Einstein. Nhiệt độ này giảm dần theo thời gian khi vũ trụ nở rộng. Khi thể tích cũa vũ trụ vượt khỏi một giới hạn nào đó th́ khắp mọi nơi xuất hiện một bức xạ nhiệt (radiation) tuân theo định luật 'black body radiation'. Từ đó nhiệt độ của vũ trụ giảm dần cho tới nhiệt độ vi ba, tức khoảng 3 độ Kelvin.
Gần đây hơn (1994) nhà vật lư thiên văn George Smoot của đại học U.C. Berkeley đă dùng máy ḍ nhiệt độ vi phân trên satellite Cosmic Background Explorer (COBE) và đo được xê dịch rất nhỏ, tương ứng với khoảng một phần triệu độ Celsius, của nhiệt độ vi ba này, vừa đủ để giải thích sự h́nh thành của các thiên hà và cấu trúc đặc biệt của vũ trụ. Ông đă khẳng định rằng khoa học đă t́m thấy bằng chứng của sự h́nh thành vũ trụ. Ông c̣n nói thêm, khám phá này dường như giúp ông "nh́n thấy được bóng dáng của Đấng Tạo Hóa".
Hiện nay các nhá khoa học thiên văn đang bàn thảo về một vài điểm đặc biệt của vũ trụ. Vũ trụ chúng ta đang sống được xếp đặt một cách hết sức tinh vi lạ lùng. Một trong những hấp lực quan trọng xuất hiện trong thời kỳ phôi thai của vũ trụ và c̣n lại đến nay là lực hấp dẫn (gravitational force) do Isaac Newton khám phá ra đầu tiên. Lực này được định đoạt bởi hằng số hấp dẫn (gravitational constant). Điều đặc biệt là nếu như hằng số này chỉ sai biệt trên 1/1060, theo tính toán cả thế giới sẽ sụp đổ ngay lập tức sau khi bùng nổ, hoặc mọi vật sẽ bay xa khỏi nhau quá nhanh làm cho vũ trụ không đủ mật độ để tạo nên vật chất như chúng ta đang có hiện nay. Một lực quan trọng khác là lực điện từ (electro-magnetic force), đôi khi c̣n gọi là lực tương tác yếu (electro-weak force). Nếu như lực này bị thay đổi khoảng 1/ 1040, vũ trụ không thể h́nh thành các hành tinh như trong thái dương hệ chúng ta đang sống.
Khi phân tích về các yếu tố tạo nên nguyên tử, phân tử, và các nguyên tố bền vững, các nhà khoa học cũng rất ngạc nhiên khi thấy trọng lượng các hạt cơ bản (elementary particles) rất quan trọng cho việc sinh tồn của thế giới tự nhiên. Nếu như tỉ lệ khối lượng hạt up-quark trên hạt down-quark chỉ xê dịch một chút, nguyên tử bền vững sẽ không thể h́nh thành. Bởi v́ hai đơn vị up-quark và một đơn vị down-quark tạo nên proton, và hai hạt down-quark và một up-quark tạo nên neutron. Khối lượng neutron và proton rất quan trọng để tạo nên hydrogen và các nguyên tố bền vững khi kết hợp với electron qua lực tương tác yếu (electro-weak force) và lực tương tác mạnh (strong force). Ngoài ra có thể kể đến hàng trăm hạt cơ bản khác cỏ ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến vật chất trong vũ trụ (xin đọc thêm Hugh Ross, The Creator and the Cosmos).
Trên đây chỉ là một vài ví dụ điển h́nh của những nét kỳ diệu trong sự h́nh thành vũ trụ. Mặc dù hữu thần hay vô thần, mọi người trong giới khoa học đều công nhận những điểm đặc biệt này và cho rằng vũ trụ được điều chỉnh hết sức chính xác ( a finely tuned universe). Một số người hoài nghi nhất cũng không thể phủ nhận sự hài ḥa của vũ trụ là một sự huyền nhiệm, nằm ngoài khả năng ước tính theo xác xuất thống kê của khoa học.
Không những các hằng số vũ trụ có tính cách đặc biệt tạo nên một vũ trụ sống động, mà những định luật căn bản nhất của thế giới tự nhiên cũng tiềm ẩn một sự khôn ngoan lạ lùng. Không thể do trùng hợp mà các định luật vật lư cơ bản nhất của khoa học hiện nay đều dựa vào những định luật toán học chính xác, chặt chẽ và sâu sắc nhất. Từ những phương tŕnh tương đối (relativity), cơ học lượng tử (quantum mechanics), cơ học sóng (wave mechanics), cho đến những lư thuyết tối tân nhất như thuyết 'superstring' giải thích cơ chế tương tác của mọi hấp lực trong vũ trụ, đều dựa trên căn bản của các định luật và phương tŕnh toán học chính xác. Có lẽ chính v́ vậy mà nhà bác học Einstein đă thốt lên rằng "Thượng đế có thể huyền bí nhưng không hề có ác ư" ("The Lord is subtle but not malicious"). Nhà vật lư thiên văn Stephen Hawking, trong quyển Stephen Hawking's Universe (Stephen Hawking, pp. 121), đă viết "Tỹ lệ nghịch với khả năng vũ trụ như chúng ta đang có hiện nay ra từ một vụ nổ lớn chỉ bởi t́nh cờ thật là khổng lồ. Tôi nghĩ chắc phải có nguyên nhân sâu xa có tính cách tôn giáo."
Một huyền nhiệm khác mà Đấng Sáng Tạo đă an bài trong bức tranh vũ trụ là sự hiện diện của sinh vật sống và của con người với tŕnh độ trí tuệ khôn ngoan đặc biệt. Trái đất chúng ta đang sống đă được trang bị khéo léo để tạo nên một điều kiện môi sinh thích hợp cho sự tồn tại và phát triển của sinh vật sống. Thượng tầng khí quyển với lớp ozone đă ngăn chận bức xạ tuyến vũ trụ có thể gây tai biến trong cơ thể sinh vật sống. Trọng lượng trái đất, nhiệt độ và dưỡng khí trên mặt đất thích hợp cho sự sống, trục nghiêng của quả đất tạo nên bốn mùa, hoạt động của núi lửa và khối nước của đại dương bảo tŕ độ ẩm và điều ḥa nhiệt độ và thời tiết. Cả vũ trụ với những hằng số đặc biệt và những định luật khôn ngoan đă được xếp đặt để tạo nên và duy tŕ sự sống của muôn loài vạn vật trong đó có con người. Đối với nhà khoa học Paul Davies, thế giới chúng ta đang sống là một thế giới có mục đích, và là một thế giới đầy sáng tạo. Ông công nhận đă bị thuyết phục bởi người thợ vẽ kiểu của thế giới này.
"Thế giới này không những chỉ thích hợp cho sự sống thông minh (intelligent life), nhưng c̣n phục vụ một cuộc sống phong phú (meaningful life)", nhà sinh vật học người Anh John Maynard Smith đă thốt lên như vậy. Nếu quả đất nầy chỉ có toàn người máy không biết cảm xúc, không biết sung sướng hay đau đớn, th́ có lẽ không có lư do ǵ để quan tâm đến. Sự sống trên một trái đất như vậy chỉ có vật chất mà hoàn toàn thiếu vắng cuộc sống tinh thần. Thật vậy, ư thức, t́nh cảm, hiểu biết, cảm xúc là những nhân tố vô cùng quan trọng cho một cuộc sống phong phú lành mạnh trên trái đất. Có thể nói đó cũng là phần thưởng quí giá của Đấng Sáng Tạo cho con người - cả thể chất lẫn tâm linh. Nhờ có trí tuệ và t́nh cảm, con người mới có thể cảm nhận được Đấng Sáng Tạo qua khả năng suy luận về vũ trụ và những định luật trong vũ trụ, hoặc kiêm nghiệm được bản thể Ngài qua sự phong phú của vật thọ tạo.
Không những con người có thể t́m hiểu Đấng Sáng Tạo qua cảm nhận từ thế giới tự nhiên, nhưng có thể qua kinh nghiệm tôn giáo. Cơ Đốc Giáo là một trong những tôn giáo bày tỏ sự tương quan mật thiết giữa con người và Thượng đế. Một điều thường được nhắc đến trong Cơ Đốc Giáo là kinh nghiệm siêu nhiên và những phép lạ. Kinh nghiệm được sự hiện hữu của Thượng Đế cho chính bản thân là một trong những kinh nghiệm siêu nhiên (divine revelation) mà mọi Cơ Đốc Nhân đều từng trải khi tiếp nhận Đấng Sáng Tạo là Chúa của đời sống ḿnh. Các phép lạ như sự chữa khỏi bệnh trong khoảnh khắc, hoặc sự can thiệp đặc biệt từ trên (divine intervention) trong những trường hợp nguy biến, đă thường xuyên được ghi nhận và kiểm chứng. Tác dụng của sự cầu nguyện trong việc chữa bệnh cũng đă được công nhận trong giới y khoa và đă được thảo luận trong các Hội Đồng y khoa thường niên (gần đây nhất là trong Hội Đồng tháng mười của Hiệp Hội Family Doctor Yankelovich Partners thuộc Academy of Family Physicians).
Thánh Kinh cho biết Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo nên vũ trụ và con người. Từ thuở ban đầu Ngài muốn cho con người được hạnh phúc và thông công với Ngài. Con người v́ lựa chọn bản ngă thay v́ Thiên Chúa nên đă xa cách, đánh mất mối dây liên lạc với Thiên Chúa. Tuy nhiên, qua sự chết đền tội của Chúa Cứu thế Giê xu là Con Độc Sanh của Thượng Đế, loài người có thể được nối kết lại với Đấng Sáng Tạo nếu như bằng ḷng tiếp nhận Chúa Giê xu làm Chúa của đời sống ḿnh. Chỉ khi nào t́m được Thiên Chúa, khoảng trống vắng tâm linh của con người mới được lấp đầy. Chỉ qua sự tiếp nhận Chúa Giê xu, con người mới t́m và gặp được Thượng đế, và vật thọ tạo mới được có thể nối kết vơí Đấng Sáng Tạo. Khi đó con người có thể chiêm ngưỡng và thông công với Đấng Tạo Hóa qua thế giới hài ḥa sinh động mà Ngài đă dựng nên.
Ân-Điển Nguyễn
01-14-1997
Sách tham khảo:
Boslough, John, Stephen Hawking's Universe (New York: Harper & Row, 1979).
Davies, Paul, The Mind of God (New York: Simon & Schuster, 1993).
Hoàng, Trọng Miên, Việt nam Văn Học Toàn Thư ( Houston: Xuân Thu, 1976).
Kang, C.H. and Nelson, E., The Discovery of Genesis (St Louis: Concordia, 1979).
Ross, Hugh, The Creator and the Cosmos (Colorado Spring: NavPress, 1993).
Ross, John, The Original Religion of China (London: Oliphant, Anderson and Ferrier, 1909).
Sáng Thế Kư dưới lăng kính khoa học | T́m hiểu Đấng Sáng Tạo | Thông điệp từ trời | Khoa học và niềm tin | Tiến hóa hay Sáng tạo | THỊ GIÁC | Vũ Trụ Có Khởi Thủy Không
Trong câu chuyện khoa học viễn tưởng "Contact", mà gần đây đă được Hollywood chuyển thành phim, nhà văn và khoa học gia Carl Sagan đă mô tả những giây phút hồi hộp trong đời của nhà thiên văn trẻ tuổi Ellie Arroway, khi cô nhận được một số tín hiệu khác thường đến từ ngoại tầng không gian trong khi ḍ thám tín hiệu lạ từ các thiên hà lân cận. Sau khi xem xét, Dr. Arroway và đồng nghiệp xác nhận rằng đây là những tín hiệu thật sự phát xuất từ ngoài không gian. Những tín hiệu này là một chuỗi các số nguyên tố (prime number) mà các nhà khoa học tin rằng không chỉ riêng con người nhưng bất cứ một thế giới văn minh nào cũng có thể khám phá và xử dụng được. Điều mà cô Ellie trông chờ bao nhiêu năm nay đă thành sự thật. Câu chuyện kết thúc sau khi Ellie bắt liên lạc và gặp được người gởi tín hiệu cũng chính là người cha ruột quá cố của cô. Mẫu chuyện cảm động phần nào nói lên tâm trạng của Sagan, người đă vận động Quốc Hội Mỹ ủng hộ và tài trợ cho các chương tŕnh thám hiểm không gian và tim kiếm những nền văn minh ngoài trái đất. Điều đáng buồn là cho đến khi Sagan mất vào năm 1996, ông vẫn chờ đợi trong tuyệt vọng để nhận tín hiệu mang một thông điệp từ Trời, nhưng vẫn vô tăm. Thật ra cách đây hai ngàn năm đă có một thông điệp từ ngoại tầng không gian, bên ngoài không thời gian bốn chiều của vũ trụ mênh mông. Thông điệp đó đă đến với thế giới loài người từ cơi Trời. Đó chính là thời điểm lịch sử Thượng đế từ Trời đến với nhân loại qua sự ra đời của hài nhi Giê xu Christ. Đáng tiếc thay, v́ niềm tin hẹp ḥi và tánh tự cao, Sagan đă dành cuộc đời ḿnh hoài công t́m kiếm một thông điệp trong cơi trần, nhưng không nhận diện được bản thể chân chính của thông điệp từ cơi Thượng.
Lư do nào khiến Sagan và nhiều khoa học gia ngày nay tin tưởng vào sự hiện diện của một thế giới khác hơn thế giới chúng ta đang sống? Có lẽ Sagan cũng như bao nhiêu khoa học gia khác trân trọng và thán phục trước sự kỳ diệu của trật tự trong vũ trụ, sự hiện diện của sự sống và một nền văn minh trên đất. Nhờ vào những viễn vọng kính tối tân, các nhà khoa học có thể quan sát được những thiên thể xa xăm trong vũ trụ, nơi mà ánh sáng phải mất hàng tỉ năm mới đến trái đất. Trái đất chỉ là một phần tử rất nhỏ bé trong một bầu vũ trụ bao la. Trái đất thuộc về Thái dương hệ trong đó có mặt trời. Thái dương hệ là một phần trong hàng tỉ ngôi sao khác của dải Ngân hà (Milky Way galaxy). Dải Ngân hà và nhiều thiên hà (galaxy) khác xoay quanh một trung tâm của cụm thiên hà (cluster). Nhiều cụm thiên hà tạo nên siêu thiên hà (superclusters). Tổng cộng có khoảng 1023 ngôi sao trên bầu trời, có lẽ bằng hoặc nhiều hơn số lượng cát trong ḷng đại dương. Thế nhưng các tinh tú trên trời dịch chuyển hết sức chính xác từ năm này sang năm nọ theo một định luật tuần hoàn không sai trật, không thay đổi theo thời gian hoặc không gian. Những trật tự, định luật, và những hằng số thiết lập trong vũ trụ chắc chắn phải đến từ một trí thông minh xuất chúng bên ngoài trái đất.
Nếu như trật tự ở ngoại tầng khí quyển không thể có căn nguyên từ trái đất, th́ sự sống ngay trên trái đất cũng không ngoại lệ. Nhờ kính hiển vi, các nhà khoa học có thể quan sát cấu trúc tinh vi của sự sống. Mỗi một tế bào sống là một xưởng xây cất khổng lồ. Những RNA là thợ chuyên chở xây cất, protein là vật liệu xây dựng, và DNA là bản thiết kế họa đồ. Cả ba phải hợp tác chặt chẽ mới khuôn đúc nên một tế bào phức tạp sống động. Mặc dù với số lượng vật liệu và nhân công khổng lồ trong một thể tích tí hon, nhưng hầu như không bao giờ có hiện tượng tắc nghẽn lưu thông, mất trật tự. Trái lại những nhân công của tế bào sống luân phiên chuyên chở vật liệu một cách nhịp nhàng, hài ḥa và đến địa điểm luôn luôn chính xác, nhanh chóng, và đúng lúc. Hơn nữa, khác với những hợp chất hóa học vô tri, tế bào sống vô cùng hữu dụng v́ có chứa đựng lượng thông tin (information) khổng lồ. Tế bào sống hoạt động vô cùng uyển chuyển và tinh vi giống như một chiếc máy điện toán tối tân, nhưng nếu không có hệ thống thông tin sẽ trở nên một chiếc máy vô dụng như những chiếc máy khác. Được thiết kế với một cấu trúc cực kỳ tinh vi như vậy, sự sống không thể nào bắt nguồn từ những vật liệu vô tri vô giác từ trái đất.
Nhờ có sự sống, những hoạt động của quả địa cầu trở nên phong phú. Thời tiết trở nên điều ḥa theo thời gian với chu kỳ hô hấp tuần hoàn của thế giới thực vật. Nhiệt độ trái đất cũng trở nên bớt khắc nghiệt khi lớp ozone trên thượng tầng khí quyển được h́nh thành và lớp thán khí được thải ra giữ hơi ấm trên mặt đất. Chính tại cao điểm hoàn mỹ của hệ thống môi sinh trên trái đất, con người và một nền văn minh vượt bực đă ra đời. Thế giới dường như đă được chuẩn bị kỹ lưỡng với mục đích nghênh đón sự xuất hiện của loài người. Xă hội loài người có lẽ không thể tồn tại lâu dài nếu hệ thống môi sinh của địa cầu chưa hoàn chỉnh và cân đối. Với sự ra đời của con người có lư trí, t́nh cảm nhạy bén và tâm hồn phong phú, trái đất trở nên sống động bội phần hơn. Ngược lại nếu như không có loài người, thế giới có sinh động hài ḥa bao nhiêu cũng chỉ như một tác phẩm nghệ thuật vĩ đại nhưng không có người thưởng thức và xử dụng.
Những trật tự trong vũ trụ, sự sống trên trái đất, ngay cả nguồn gốc loài người, nếu như không thể bắt nguồn từ địa cầu, th́ phát xuất từ đâu? Có thể nào từ một nền văn minh của một hành tinh khác có trước trái đất chăng, giống như trong câu chuyện “Contact” của Sagan? Câu trả lời này không thỏa đáng v́ bất cứ một nền văn minh nào cũng không thể thiết lập trật tự trong vũ trụ đă có từ buổi ban đầu khi vũ trụ được h́nh thành. Khoa học cho biết ngay cả bốn chiều không và thời gian của thế giới chúng ta cũng có khởi đầu cách đây hơn 10 tỉ năm. Như vậy bộ óc khôn ngoan thiết kế nên vũ trụ phải đến từ bên ngoài vũ trụ. Đấng sáng tạo nên vũ trụ, sự sống và con người phải ở ngoài một thế giới vật chất tuy bao la nhưng có giới hạn trong bốn chiều không và thời gian.
Câu hỏi kế tiếp đặt ra là, Đấng sáng tạo là ai và có bản chất như thế nào? Chúng ta biết rằng Đấng đó không thể chỉ giống như một Đấng đó không thể nín lặng như một vật vô tri vô gíác, nhưng chắc hẳn phải có tư tưởng và khả năng truyền đạt (communicate) tư tưởng. Nếu Đấng sáng tạo thật sự liên lạc với loài người, th́ thông điệp của Ngài là ǵ và có thể t́m thấy ở đâu? Thông điệp đó có thể t́m thấy trong khoa học, toán học, nhân văn, hay trong tôn giáo chăng? May mắn thay, khi t́m hiểu lịch sử loài người và các tôn giáo trên thế giới, có thể t́m thấy trong Cơ Đốc giáo là một tôn giáo duy nhất xác nhận sự hiện diện của một Thượng đế là Đấng sáng tạo nên vũ trụ và loài người. Thông điệp của Ngài cho loài người được chép lại trong Thánh Kinh và bày tỏ qua Chúa Cứu thế Giê xu, cũng chính là hiện thân nhục thể của Đấng sáng tạo. Chúa Cứu thế Giê xu đă từ bỏ bản thể siêu phàm để bước vào thế giới thu hẹp ba chiều hữu hạn của loài người vào hai ngàn năm trước để bày tỏ cho con người biết bản chất của Thượng đế và chương tŕnh kỳ diệu của Ngài dành cho loài người.
Khác với những kinh điển khác dạy con người phương pháp t́m đến Thượng đế, Thánh kinh cho biết Thượng đế đă t́m đến với loài người và muốn nối kết sự thông công với loài người. Mặc dầu với trí tuệ khôn ngoan và khả năng phi thường, con người không thể trực tiếp liên lạc và thông công với Thượng đế là Đấng thánh thiện, bởi v́ loài người đă một lần sa ngă phạm tội tạo nên một hố sâu đen tối ngăn cách giữa con người và Thượng đế. Giải pháp duy nhất của Thượng đế là dùng chính Thượng đế Ngôi Hai giáng thế làm người để hoàn thành sự nối kết thông công giữa loài người và Thiên Chúa. Hơn thế nữa, chính Ngôi Hai Thiên Chúa là Đấng vô tội chấp nhận gánh lấy bản án tội của loài người bằng cách xả thân chịu chết như một tử tội, để qua đó bởi niềm tin trong Chúa Cứu thế con người được hoàn nguyên vị làm con và có thể thông công trực tiếp với Thiên Chúa.
Như vậy thông điệp từ Trời chính là cuộc đời của Chúa Cứu thế Giê xu, chức vụ kỳ diệu và sự hy sinh cao cả của Ngài trên thánh giá. Tiếc thay nhà khoa học Sagan đă không nh́n nhận thông điệp này và qua đời trong tuyệt vọng. Ngày nay khi hân hoan kỷ niệm sự ra đời của Chúa Giê xu, người Cơ Đốc bởi đức tin nhận được sự tha thứ và thông công với Đấng Sáng tạo vũ trụ cần được nhắc nhở về t́nh thương của Chúa Ngôi hai là Đấng mang thông điệp cứu rỗi cho nhân loại từ cơi Trời.
Nguyễn Lê Ân-Điển, Ph.D.
Sáng Thế Kư dưới lăng kính khoa học | T́m hiểu Đấng Sáng Tạo | Thông điệp từ trời | Khoa học và niềm tin | Tiến hóa hay Sáng tạo | THỊ GIÁC | Vũ Trụ Có Khởi Thủy Không
Ngày nay nhiều người cho rằng không có Đấng Tạo Hóa và Kinh Thánh là sai lầm. Nhưng càng theo dơi các khám phá mới của Khoa Học chúng ta càng cảm biết rằng phải có một Đấng Tạo Hóa khôn ngoan sáng tạo nên muôn loài và tạo nên những định luật vật lư cố định. Nhờ những định luật này mà các nhà khoa học có thể giải thích được một phần rất nhỏ nhoi của vũ trụ bao la. Chúng ta không thể dựa vào sự hiểu biết hữu hạn của con người là vật thọ tạo để cho rằng không có Đấng Tạo Hóa.
Ngoài vũ trụ bao la, Thượng Đế cũng đặc biệt tạo dựng nên con người một cách diệu kỳ. Con người không thể đến từ sự ngẫu nhiên hay theo sự tiến hóa từ một tế bào nào đó hằng triệu năm về trước và từ từ thành con người ngày nay. Chỉ cần quan sát một phần nhỏ của thân thể là con mắt chúng ta cũng biết có một Đấng Đại Tài và Toàn Năng đă tạo dựng nên con người. Chúa phán: “Ấy, chính ta đă làm ra đất, dựng nên loài người ở trên đất; chính ta, tức là tay ta, đă giương ra các từng trời, và đă truyền bảo các cơ binh nó.” (Thánh Kinh Ê-sai 45:12). Sứ-đồ Phao-lô cũng nói: “Từ khi sáng tạo trời đất những đặc tính vô h́nh của Thượng Đế tức là quyền năng vô tận và bản tính thần linh- đă hiển nhiên trước mắt mọi người, ai cũng có thể nhận thấy nhờ những vật hữu h́nh, nên họ không c̣n lư do chữa tội.” (Thánh Kinh thơ La-mă 1:20 BDY).
Thượng Đế không những sáng tạo nên vũ trụ và con người một cách diệu kỳ nhưng Ngài cũng yêu thương và quan tâm đến vật thọ tạo của Ngài. Đấng Tạo Hóa yêu con người đến nỗi sai chính con Ngài đến thế gian chịu chết v́ tội lỗi nhân thế. Thánh Kinh chép: “Thật vậy, khi chúng ta c̣n yếu đuối, Chúa Cứu Thế đă theo kỳ hẹn chịu chết v́ kẻ có tội. Vả, họa mới có kẻ chịu chết v́ người nghĩa; dễ thường cũng có kẻ bằng ḷng chết v́ người lành. Nhưng Đức Chúa Trời tỏ ḷng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta c̣n là người có tội, th́ Chúa Cứu Thế v́ chúng ta chịu chết.” (Thánh Kinh thơ La-mă 5:6-8). Chính Chúa Giê-xu cũng phán về mục đích và đối tượng chính của Ngài khi đến thế gian trong Phúc Âm Lu-ca 19:10: “Ta đến trần gian để t́m và cứu những người lầm lạc.”
Xin mời quí vị Tiếp Nhận Chúa Cứu Thế Giê-xu vào ḷng để được nối lại sự tương giao với Thượng Đế Yêu Thương là Đấng Tạo Hóa Chân Thần.
An Dien Nguyen, Ph.D
Sáng Thế Kư dưới lăng kính khoa học | T́m hiểu Đấng Sáng Tạo | Thông điệp từ trời | Khoa học và niềm tin | Tiến hóa hay Sáng tạo | THỊ GIÁC | Vũ Trụ Có Khởi Thủy Không