Tiến hóa hay Sáng tạo?

Trong những thập niên cuối của thế kỷ hai mươi và bước sang thập niên đầu của thế kỷ hai mươi mốt, nhiều khám phá khoa học kỹ thuật đă đem đến ảnh hưởng sâu rộng trong nền văn minh tiến bộ của nhân loại. Kỹ thuật thông tin, hệ thống mạng lưới toàn cầu, công dụng của máy vi tính, sự phát triển và thành công của y học hiện đại với những phương pháp trị liệu kết quả cho các bệnh nan y hiểm nghèo, là những thành tựu đáng kể đem lại nhiều thay đổi quan trọng trong xă hội loài người. Được trang bị với những dụng cụ khoa học hiện đại tối tân, hữu hiệu, chính xác, các nhà khoa học lần lượt vén lên những bức màn bí mật của thế giới tự nhiên, và đă bàng hoàng ngạc nhiên khi t́m hiểu và chiêm nghiệm được cơ chế hoạt động của guồng máy phức tạp điều khiển trật tự và cơ cấu tổ chức của thế giới vật chất, từ hoạt động sinh hóa tinh vi của những tế bào sống bé nhất trên mặt đất cho đến những định luật vật lư chặt chẽ kiểm soát vận hành, trật tự của các tinh tú xa xôi trên không trung bao la. Những kiến thức mới mẻ và thành tựu khoa học có được ngày nay, từ sinh vật, hóa học, điện toán, cơ khí, cho đến vật lư, thiên văn, v.v., đ̣i hỏi sự hy sinh, tận tụy của hàng trăm ngàn khoa học gia và các sinh viên khoa học qua nhiều thế hệ. Nhiều giáo sư đă hy sinh chính hạnh phúc cá nhân, nhiều sinh viên khoa học đă vùi đầu trong các pḥng thí nghiệm, làm việc ngày đêm không ngừng nghỉ, để đem lại bước tiến không ngừng trong công tác nghiên cứu khoa học. Kết quả tích lũy của những nổ lực nghiên cứu này là một kết luận thực tại vô cùng rơ nét: cơ chế hoạt động của vũ trụ, từ vận chuyển của các thiên hà khổng lồ cho đến hoạt động của sự sống ở mức độ phân tử, không thể là sản phẩm t́nh cờ của tự nhiên nhưng đă được thiết kế (designed) một cách kỳ diệu tột bực. Kết quả này hết sức rơ ràng và mang ư nghĩa vô cùng sâu xa đến nỗi có thể được xem là một trong những thành tựu lớn lao nhất trong lịch sử khoa học. Có thể nói khám phá này vượt trội hơn các khám phá của Newton, Einstein, Pasteur, Darwin, hoặc ít nhất ngang hàng với khám phá khi con người biết được trái đất xoay quanh mặt trời và vi khuẩn gây nên bệnh tật. Trong những năm gần đây, khám phá được sự hiện hữu của một "thiết kế khôn ngoan" (intelligent design) đă trở nên đế tài thịnh hành cho nhiều buổi hội thảo quốc tế giữa các nhà khoa học, triết gia, và thần học. Nhiều tác phẩm khoa học mới đă ra đời, trong đó các nhà khoa học b́nh luận ư nghĩa tôn giáo của những khám phá khoa học tích lũy trong nhiều thập niên qua.

Sự phát hiện một "thiết kế khôn ngoan" đến từ nhiều lĩnh vực khác nhau trong các ngành khoa học hiện đại. Quan trọng hơn hết có thể kể đến sinh hóa học (biochemistry), sinh vật học phân tử (molecular biology) và vật lư thiên văn (astrophysics). Như sẽ tŕnh sau đây, kết quả của công cuộc nghiên cứu sinh hóa học phân tử về tế bào sống và các chức năng hoạt động trong cơ thể sinh vật sống đă làm lung lay tận gốc rễ thuyết tiến hóa vĩ mô của Darwin cho rằng sự sống là kết quả của quá tŕnh chọn lọc tự nhiên. Bên cạnh đó, các khám phá trong ngành vật lư thiên văn đă cho thấy các định luật vật lư điều hợp sự h́nh thành và vận chuyển của các thiên thể trong vũ trụ đă được thiết kế vô cùng chính xác và hài ḥa làm nền tảng duy tŕ sự sống trên mặt đất.

I. Sinh hóa học (biochemistry), sinh vật học phân tử (molecular biology) và thuyết tiến hóa (evolution theory):

Trong những năm gần đây, thuyết tiến hóa của Darwin là một trong những đề tài tranh luận sôi nổi nhất trong giới nghiên cứu khoa học. Trong các buổi hội thảo quốc tế nổi tiếng cũng như trong các tạp chí khoa học có uy tín hàng đầu, mỗi một chi tiết của thuyết tiến hóa được tranh căi với mức độ gay cấn chưa từng thấy như trong bất cứ một ngành khoa học nào khác. Lư do thuyết tiến hoá được chú ư một cách đặc biệt là v́ trải hơn một thế kỷ, thuyết này đă được đại đa số thành phần trí thức trong thế giới khoa học đề cao như là một thực tại hiển nhiên và đă làm nền tảng cho nhiều ngành khoa học, kể cả nhân văn, triết lư, chính trị, và xă hội học. Bất cứ một đề nghị nào phủ nhận giá trị của thuyết tiến hóa mặc nhiên thách thức nền móng của hệ thống trí thức và triết học hiện đại. Tuy nhiên sau hơn thế kỷ nổ lực nghiên cứu, các nhà sinh vật học chủ trương thuyết tiến hóa vô cùng thất vọng không t́m thấy được một chứng cớ nào xác nhận giá trị của thuyết tiến hóa vĩ mô của Darwin đưa ra, ngược lại tất cả các nghiên cứu về hệ thống sinh hóa và cơ chế hoạt động của tế bào sống cho thấy thế giới của sự sống đang được điều khiển bởi những bộ máy phân tử (molecular machines) đă được thiết kế một cách hoàn chỉnh, tinh vi, và vô cùng phức tạp.

Thuyết tiến hóa vĩ mô là ǵ?

Vào năm 1859, Charles Darwin trong tác phẩm "Nguồn gốc các loài" đă đưa ra một số chứng cớ của tiến hóa vi mô (microevolution), cho thấy rằng một số loài mới có thể xuất hiện từ loài có trước qua quá tŕnh chọn lọc tự nhiên (natural selection), bởi v́ thiên nhiên có khuynh hướng lựa chọn những thay đổi có lợi nhưng đào thải những thay đổi không có lợi. Từ đó Darwin đưa ra lập luận tiến hóa vĩ mô (macroevolution) cho rằng các chủng loại phức tạp được h́nh thành từ hợp chất vô cơ đơn giản qua quá tŕnh tiến hóa lâu dài dưới tác động của chọn lọc tự nhiên, và với thời gian đủ lâu, chọn lọc tự nhiên có thể dần dần đem lại sự khác biệt giữa mọi chủng loại của thế giới sống. Lập luận của thuyết tiến hóa vĩ mô dựa vào ba giả thuyết chính:

(1). Tiến hóa giữa các loài phải là một quá tŕnh chậm, liên tục không gián đoạn, và do ngẫu nhiên định đoạt
(2). Các loài chuyển tiếp (transitional species) phải hiện hữu
(3). Không thể có sự hiện hữu của những cấu trúc phức tạp mà không thể làm đơn giản hơn (irreducibly complex structures)

Các quá tŕnh nghiên cứu sau hơn một thế kỷ từ khi tác phẩm "Nguồn gốc các loài" ra đời cho thấy rằng cả ba giả thuyết trên hoàn toàn đi ngược với những khám phá trong ngành sinh vật học hiện đại, di truyền học, và sinh hóa học.

(1). Trong "Nguồn gốc các loài", Darwin công nhận có những cách biệt (gaps) rất to lớn giữa các chủng loại (phyla) từ những di tích hóa thạch được t́m thấy trong thời ông nhưng cho rằng đó là v́ di tích hóa thạch trong thời ông chưa được đầy đủ. Tuy nhiên sau hơn một thế kỷ ṛng ră t́m kiếm, các nhà tiến hóa vẫn không lấp được những khoảng trống do Darwin nêu ra. Ngược lại, các di tích hóa thạch được t́m thấy cho biết các loài mới xuất hiện một cách đột ngột. Nhà sinh vật học Stephen Gould của đại học Harvard (1973) nh́n nhận rằng các loài mới với những h́nh thái hoàn toàn thay đổi xuất hiện một cách th́nh ĺnh trong những vùng cô lập. Có một sự gián đoạn rất lớn giữa những chủng loài mới và cũ. Thật ra sự cách biệt này được làm rơ nét hơn nhờ những thành tựu khoa học trong những năm gần đây, đặc biệt nhất là hố ngăn cách giữa sự sống và thế giới vô cơ. Với những khám phá trong ngành di truyền học và sinh vật học phân tử, các khoa học gia ngày nay tin rằng sự khác biệt giữa thế giới vô cơ và sự sống là một trong những ngăn cách lớn nhất trong thế giới tự nhiên, không hề được chắp nối bởi bất cứ một dạng chuyển tiếp nào cả. Darwin lập luận rằng quá tŕnh tiến hóa được xảy ra dưới sự tác động của yếu tố ngẫu nhiên. Ngày nay khoa xác suất thống kê trong di truyền học cho biết những biến cố t́nh cờ không định hướng (unguided random events) không thể tạo nên bất cứ một dạng hoặc thể loại mới phức tạp có giá trị nào cả. Khoa học ngày nay cho biết sự sống ở mức độ phân tử ngày càng biểu hiện một tŕnh độ kỹ thuật tinh xảo, với những sinh vật sống có dạng những bộ máy cơ khí cao cấp nhất (advanced machines) mà khoa học từng biết đến. Sự thất bại của các nhà tiến hóa trong việc mô phỏng thuyết tiến hóa Darwin qua những hệ thống nhân tạo ngày càng dẫn đến một phản chứng quy mô cho thuyết tiến hóa vĩ mô Darwin nêu ra cách đây hơn một thế kỷ.

(2). Sự hiện hữu của các loài chuyển tiếp đóng một vai tṛ then chốt trong thuyết tiến hóa của Darwin. Các nhà tiến hóa kể cả Darwin đều đồng ư rằng nếu không t́m được dạng chuyển tiếp giữa các chủng loài, thuyết tiến hóa vĩ mô không thể coi là một giả thuyết khoa học có giá trị. Trong thời Darwin chỉ có một phần rất nhỏ di tích hóa thạch được t́m thấy. Trong vài thập niên đầu sau khi "Nguồn gốc các loài" ra đời, các nhà tiến hóa hy vọng t́m được các dạng chuyển tiếp và thuyết tiến hóa sẽ được kiểm chứng. Tuy nhiên hơn một trăm năm sau, công cuộc lùng kiếm các loài chuyển tiếp đạt tới mức toàn diện, với khoảng 99.9% công cuộc t́m kiếm hóa thạch được thực hiện từ năm 1860 đến nay trong đó có hơn một trăm ngàn hóa thạch đă được t́m thấy, dầu vậy các nhà tiến hóa vẫn không t́m ra dấu hiệu của loài chuyển tiếp từ thực vật đến động vật có xương sống, lưỡng thê, hoặc động vật không xương sống. Tất cả các hóa thạch t́m thấy từ thời Darwin tới nay đều có dạng đă được biết, hoặc có dạng hoàn toàn mới chưa hề được khảo nghiệm. Nhà sinh vật học Robert Barnes (1980) kết luận rằng "di tích hóa thạch gần như hoàn toàn không cho ta biết ǵ về nguồn gốc tiến hóa của các chủng loại và các lớp. Loài chuyển tiếp không hiện hữu, không được khám phá, hoặc không được nhận diện."

Thoạt nh́n, việc t́m kiếm các loài chuyển tiếp tưởng như là một việc dễ dàng, nhưng càng đi sâu, các nhà tiến hóa càng lâm vào cảnh bế tắc. Một khi những cấu trúc và chức năng sinh hóa của những chủng loài gần kề nhau được hiểu rơ, sự khác biệt giữa các chủng loài càng trở nên sâu đậm. Một ví dụ điển h́nh là những khác biệt sâu sắc giữa loài chim và loài ḅ sát, được coi là thủy tổ của loài chim theo như các nhà tiến hóa phân định. Càng t́m hiểu những chức năng của loài chim, từ lông, cánh, phổi, hệ thống tim mạch, cấu tạo của tim, hệ thống dạ dày ruột non, hệ thống phát âm, các nhà khoa học càng phát hiện tính cách độc đáo riêng biệt trong cấu trúc của loài này, với những thiết kế hoàn toàn khác biệt so với loài ḅ sát. Chẳng hạn như hệ thống hô hấp của loài động vật có xương sống kể cả ḅ sát là hệ thống hai chiều - dưỡng khí đi vào buồng phổi qua một hệ thống gồm nhiều ống phế quản (bronchi) và hội tụ tại những túi hơi (air sac) gọi là phế nang (alveoli). Như vậy trong lúc hô hấp, dưỡng khí đi vào và ra cùng một ngă (two-way flow). Trong trường hợp của loài chim, phế quản chính tại ngơ vào được phân chia thành nhiều ống li ti nhưng sau đó kết hợp trở lại làm một ống dẫn chính tại ngơ ra để tạo nên hệ thống tuần hoàn, cho nên dưỡng khí chỉ đi vào một chiều xuyên qua phổi (one-way flow). Hệ thống phổi của loài chim được gắn chặt vào thân nên không thể ph́nh nở như trong trường hợp của tất cả các loài ḅ sát sau khi sanh. Đối với loài chim, dưỡng khí được nhận vào phế quản chính, phế nang, và phế quản nhánh của phổi một cách chậm răi khoảng vài ngày trước khi trứng nở. Chỉ sau khi dưỡng khí lấp đầy ống phổi, mạng lưới ống phế nang mới được h́nh thành. Những ống phế nang trong loài chim không bao giờ co thắt trở lại như trong trường hợp phế nang của các loài có xương sống. Điểm đặc biệt là tất cả các loài chim đều có chung một hệ thống hô hấp giống nhau, mà chỉ cần sai trật một chút có thể dẫn đến sự chết chỉ trong ṿng vài phút đồng hồ. Với sự khác biệt quá lớn lao của chức năng hô hấp, là bộ phận thiết yếu cho sự sống, các nhà tiến hóa hoàn toàn câm lặng khi bàn đến dạng chuyển tiếp giữa loài chim và ḅ sát.

Những nghiên cứu gần đây nhất cho thấy các chủng loại với h́nh thái khác nhau không có chung một hệ thống mật mă di truyền (DNA). Những mật mă di truyền có thể được phân loại theo lư thuyết nhóm (group theory). Chủng loại khác nhau có mật mă thuộc nhóm và lớp khác nhau, không thể lẫn lộn hoặc được xem là chuyển tiếp lẫn nhau. Do đó về phương diện di truyền học, những dạng chuyển tiếp hoặc tổ tiên chúng không thể tồn tại. Nhà sinh vật học Beverly Halstead cho rằng không có chủng loại nào có thể được xem là tổ tiên của những chủng loại khác. Không có một bằng chứng nào cho thấy có sự tiến hóa từ cá đến lưỡng thê, ḅ sát, cho đến động vật có vú. Mật mă di truyền của loài người gần với loài cá miệng tṛn như là loài cá miệng tṛn gần với những loài cá khác. Không có loài động vật xương sống nào được coi là chuyển tiếp giữa loài có cằm và không cằm. Loài lưỡng thê, thường được coi là chuyển tiếp giữa cá và động vật có xương sống, có mật mă di truyền cách biệt với loài cá như bất cứ một loài động vật có vú hoặc ḅ sát nào khác. Sự chia cách giữa các chủng loài có tính cách căn bản và tuyệt đối ở mức độ phân tử. Điều này giải thích lư do của sự thiếu vắng hoàn toàn các loài chuyển tiếp mà các nhà tiến hóa dốc tâm t́m kiếm hơn thế kỷ qua.

(3). Trong "Nguồn gốc các loài", Darwin xác nhận rằng nếu như ngày nào đó khoa học t́m ra được bằng chứng của một chức năng phức tạp mà không thể tạo nên qua nhiều giai đoạn điều chỉnh liên tục do quá tŕnh chọn lọc tự nhiên, th́ thuyết tiến hóa vĩ mô của ông sẽ hoàn toàn bị sụp đổ. Ngày nay khoa học đă phát hiện vô số chức năng phức tạp không thể làm đơn giản hơn qua nhiều giai đoạn, làm cho thuyết tiến hóa bị lung lay tận gốc rễ. Hệ thống hô hấp của loài chim như đă nêu trên là một trong những bằng chứng của một chức năng phức tạp không thể được h́nh thành qua nhiều giai đoạn thay đổi liên tục. Một bằng chứng quan trọng khác là cơ chế hoạt động và chức năng của tế bào sống. Những khám phá trong ngành sinh hóa học trong vài thập niên gần đây cho biết bất cứ một hệ thống sinh học nào có chứa đựng hơn một tế bào sống đều là một mạng lưới tinh vi phối hợp nhiều hệ thống vô cùng phức tạp khác nhau. Tế bào đơn giản nhất cũng có khả năng sản xuất hàng ngàn chất đạm và các phân tử khác nhau trong những điều kiện thay đổi. Từ khả năng tổng hợp, phân hóa, và tích trữ năng lượng cho đến sinh sản, duy tŕ, chuyển động, điều ḥa, sửa chữa, liên lạc, tất cả đều hiện diện trong mỗi tế bào, và mỗi chức năng đều cần sự tương tác giữa các bộ phận khác nhau. Hệ thống tế bào là một ví dụ điển h́nh của một hệ thống phức tạp không thể làm đơn giản hơn. Đó là một hệ thống bao gồm nhiều thành phần tương tác xứng hợp nhau mà nếu thiếu sót một trong những bộ phận này, cả hệ thống sẽ ngưng hoạt động. Một hệ thống như vậy không thể làm đơn giản hơn và không thể được tạo nên qua nhiều giai đoạn khác nhau nhưng chỉ có thể được thiết kế như một hệ thống hoàn chỉnh không bị chia cắt.

Trong thời Darwin, với những kính hiển vi thô sơ chỉ có thể phóng đại khoảng vài trăm lần, các tế bào sống chỉ giống những hạt hỗn mang di chuyển mọi hướng dưới ảnh hưởng của một số lực tương tác hỗn loạn vô h́nh. Ngày nay nếu được phóng đại hơn một tỉ lần cho đến khi mỗi tế bào tương tự như một thành phố lớn với đường kính khoảng hai mươi cây số, các nhà khoa học cho biết mỗi tế bào là một thế giới hoàn chỉnh và vô cùng phức tạp. Trên bề mặt tế bào có hàng triệu cổng ra vào, tại mỗi cổng có những ḍng thác vật liệu liên tục vào ra. Mỗi cổng ra vào là cả một thế giới kỹ thuật vượt bực và phức tạp không tiền khoáng hậu. Đó là những hành lang và ống dẫn đi mọi hướng, từ khuôn viên của tế bào đến trung ương dự trữ tin tức (memory bank), cho đến những dàn máy lắp ráp và bộ phận chế biến. Mỗi hạt nhân của tế bào là một ṭa nhà h́nh ṿm với đường kính hơn cây số, trong đó chứa đựng hàng dặm dây chuyền xoắn ốc của phân tử DNA xếp đặt ngay ngắn trật tự. Qua những ống thông một số lượng nguyên vật liệu khổng lồ được chuyên chở một cách rất trật tự tuyệt đối đến nhiều nhà máy lắp ráp khác nhau bên ngoài tế bào. Mỗi tế bào giống như một nhà máy tự động khổng lồ thực hiện nhiều chức năng với số lượng ngang ngửa với tất cả hoạt động sản xuất của loài người trên đất. Hơn nữa nhà máy này có thể tự sao chép lại toàn bộ hệ thống của chính ḿnh chỉ trong ṿng vài tiếng đồng hồ không một chút sai sót. Trong mỗi nhà máy tế bào có chứa đựng ngôn ngữ nhân tạo và hệ thống giải mă, những nhà băng chứa thông tin, hệ thống điều khiển một cách tinh vi những bộ phận lắp ráp tự động, dụng cụ pḥng ngừa sai trật hư hỏng và kiểm duyệt, quá tŕnh lắp ráp theo nguyên tắc xây dựng tiền chế (prefabrication and modular construction).

Hoạt động hiệu quả của tế bào có được là nhờ vào khả năng chứa đựng tin tức (information storage) của tế bào. DNA có khả năng chứa tin tức khổng lồ và vô cùng hữu hiệu đến nỗi nhà sinh vật học G.G. Simpson cho rằng tổng cộng mọi kiến thức cần thiết để thiết kế tất cả sinh vật sống trên đất có thể gồm tóm trong một th́a canh và vẫn đủ chỗ để chứa đựng những kiến thức của mọi quyển sách đă được viết. Những khám phá mới của các nhà sinh hóa học tại đại học Cambridge cho biết mật mă di truyền có tính cách gối lên nhau (overlapping) để giảm thiểu số lượng mă hóa. Một số chuỗi DNA có chức vụ quan trọng trong việc thâu hồi tin tức (information retrieval) không nằm cạnh những mật mă chúng điều khiển nhưng nằm quyện lẫn bên trong những mật mă đó. Các chất đạm (protein) cũng hoạt động vô cùng hữu hiệu. Nhiều chức năng protein được dồn chứa bên trong protein mẹ. Khi chức năng của protein mẹ hoàn tất, lập tức chia đôi thành hai protein khác với những chức năng khác. Cứ như thế các protein được phân hóa thành rất nhiều protein với những chức năng khác nhau. Điều này tương tự như một dụng cụ giải phẩu thu gọn, sau khi hoàn tất hoạt động đầu tiên, dụng cụ được chia ra làm hai dụng cụ khác cho những hoạt động kế tiếp, cứ như thế cho đến khi cuộc giải phẩu chấm dứt. Với chức năng tổng hợp hiệu quả, protein không những chỉ có thể tự tổng hợp chính ḿnh, nhưng có thể tổng hợp bất cứ bộ máy sinh hóa nào khác dầu phức tạp đến đâu. Protein như một bộ máy chứa đựng khả năng kiến tạo bất cứ một vật sống từng hiện hữu trên đất, từ cây xanh cho đến bộ năo con người, tất cả mọi thành phần của bộ phận chỉ trong ṿng vài phút với trọng lượng chưa tới 10-16gram. Để mô tả chức năng hoạt động của tế bào sống, các nhà khoa học phải xử dụng khái niệm và thuật ngữ khoa học kỹ thuật chuyên môn chỉ được khám phá trong những thập niên cuối của thế kỷ hai mươi. Tuy nhiên sự hiểu biết của khoa học ngày nay khi t́m hiểu tế bào sống vẫn c̣n rất hạn chế, có thể được so sánh với tŕnh độ của một người trong thời đại xă hội nguyên thủy th́nh ĺnh phải chứng kiến và cố gắng t́m hiểu những sản phẩm của nền khoa học văn minh và tŕnh độ kỹ thuật hiện đại nhất của thế kỷ hai mươi.

Mặc dầu được trang bị với những chức năng hiệu quả và tinh vi, về phương diện thiết kế cấu trúc (structural design), có thể nói tế bào sống vẫn c̣n khá đơn giản khi đem so sánh với nhiều cấu trúc phức tạp của sinh vật sống chẳng hạn như năo bộ con người. Mỗi bộ năo chứa đựng khoảng mười tỉ tế bào thần kinh. Mỗi tế bào thần kinh liên hệ với các tế bào thần kinh khác qua khoảng một trăm ngàn sợi thần kinh (neuron fiber), đem lại tổng số đường dây liên lạc lên tới 1015. Tuy với số lượng khổng lồ như vậy, mỗi sợi thần kinh được xếp đặt hết sức trật tự theo từng chức năng tạo nên một mạng lưới tinh vi trong đó một số lớn được dành riêng cho đường dây thông tin xuyên suốt năo bộ. Chỉ một phần trăm đường dây thông tin của năo bộ hoạt động cũng nhiều hơn tổng số đường dây liên lạc (connections) của toàn bộ hệ thống thông tin vĩ đại loài người hiện có trên mặt đất.

Một cấu trúc phức tạp và tinh vi khác là thị giác của loài người. Khả năng cảm nhận cường độ ánh sáng, phân biệt màu sắc, và nhận diện h́nh ảnh của mắt vô cùng phong phú, nhanh chóng, và chính xác, vượt trội xa khả năng của những máy thu h́nh hiện đại nhất. Khoa học ngày nay cho biết mỗi tế bào trong mạng lưới tế bào thần kinh nằm trong vơng mạc của mắt có thể thực hiện được vô số phép tính cộng trừ nhân chia, phóng đại (amplification), gạn lọc (filtering), và nhiều phép tính phức tạp khác. Những tín hiệu ánh sáng thâu hồi tại vơng mạc được so sánh, gạn lọc, và kết hợp (data preprocessing) theo phương pháp song song (parallel) hoặc nối tiếp (series) trước khi đưa vào hệ thống trung ương của năo bộ theo dạng mật mă nhị nguyên (binary coding).

Ngày nay khi một nhà sinh hóa học nh́n vào bất cứ một chiều hướng và góc độ nào trong khi t́m hiểu bí ẩn của thế giới sinh học phân tử, ông ta cũng thấy chằng chịt những mạng lưới bao gồm những bộ máy xử dụng tŕnh độ kỹ thuật tân tiến nhất của cuối thế kỷ hai mươi. Bất cứ nơi đâu và bất cứ chiều sâu nào nhà bác học nh́n tới, ông đều t́m thấy những thiết kế với đầy đủ sự hoàn mỹ, khéo léo tột bực và phẩm chất siêu việt vượt ngoài sức tưởng tượng của con người. Trong mọi lĩnh vực nghiên cứu của sinh hóa học, sự phát hiện về một 'thiết kế khôn ngoan' chỉ mới bắt đầu trong vài thập niên qua và đang được biểu hiện rơ ràng hơn với tốc độ ngày càng gia tăng. Chỉ so sánh với một phần rất nhỏ của thế giới sự sống, ngay cả phát minh khoa học tân tiến nhất cũng trở nên vụng về. Nhà bác học chỉ có thể cảm thấy khiêm tốn trước sự hoàn mỹ của bản thiết kế họa đồ, và cảm nhận với sự kính phục sâu xa tác giả của bản thiết kế cho sự sống, là Đấng sáng tạo nên cơ chế hoạt động của mọi sinh vật sống trong đó có bản thân ông.

II. Vật lư thiên văn và thế giới vĩ mô

Trong khi những khám phá trong ngành sinh hóa học và sinh vật học phân tử bày tỏ cấu trúc hoàn hảo trong thế giới vi mô của sinh vật sống, những phát triển trong ngành vật lư thiên văn cho thấy các định luật vật lư đang điều khiển thế giới vĩ mô đă được thiết kế một cách kỳ diệu tạo điều kiện thích hợp cho sự h́nh thành, duy tŕ, và phát triển sự sống. Những nghiên cứu khoa học tích lũy trong nhiều thập niên qua cho phép các nhà khoa học lần đầu tiên t́m hiểu được sự h́nh thành và cơ cấu hoạt động vũ trụ.

(1). Thế giới vật chất có khởi thủy

Các nghiên cứu khoa học từ nhiều lĩnh vực khác nhau, từ nhiệt động học (thermodynamics), vật lư hạt nhân (elementary particles), lư thuyết nhóm (group theory) trong toán học, vật lư thiên văn (astrophysics), cho đến thiên văn học (astromony) và vũ trụ học (cosmology), cho thấy không gian và thời gian của vũ trụ có điểm khởi đầu, cách đây khoảng hơn mười tỉ năm. Con số thời gian này thoạt nghe có vẻ lớn lao so với những tiến tŕnh xảy ra trên mặt đất, nhưng trong bức tranh của thế giới vĩ mô với những khoảng cách bao la giữa các thiên hà (galaxies) và cụm thiên hà (clusters), thời gian này chỉ vừa đủ, không hơn không kém, để tạo nên số lượng vật chất, trọng lượng, nhiệt độ, dung tích, vận tốc di chuyển và khoảng cách giữa các thiên thể trên bầu trời. Ngày nay khi nh́n lại những xê xích nhỏ nhất về nhiệt độ giữa các thiên hà trong những miền rộng lớn khác nhau trên bầu trời, nhà vật lư thiên văn George Smoot của đại học U.C. Berkeley đă thốt lên rằng ông có cảm giác "nh́n thấy bóng dáng của Đấng Tạo Hóa".

(2). Thế giới có mục đích

Các khám phá về các định luật vật lư tạo nên sự h́nh thành của thế giới vật chất cũng như tính cách quá đặc biệt trong cấu tạo của sự sống khiến cho các khoa học gia kết luận rằng vũ trụ đă được thiết kế và điều chỉnh một cách vô cùng chính xác (a finely tuned universe) để cho phép sự sống xuất hiện và tồn tại đến ngày nay. Khi phân tích các yếu tố tạo nên nguyên tử, phân tử, và các nguyên tố bền vững, các khoa học gia thấy rằng trọng lượng của các hạt cơ bản (elemetary particles) rất quan trọng cho việc sinh tồn của thế giới tự nhiên. Nếu như tỉ lệ trọng lượng hạt 'up' quark so với 'down' quark chỉ xê dịch một chút, nguyên tử bền vững sẽ không thể h́nh thành, bởi v́ proton bền vững được kết hợp bởi hai đơn vị 'up' quark và một đơn vị 'down' quark, và neutron được tạo nên bởi một 'up' quark và hai 'down' quark. Trọng lượng neutron và proton quan trọng cho việc h́nh thành hydrogen và các nguyên tố bền vững, nhờ sự giao hợp giữa lực tương tác yếu (electro-weak force) và tương tác mạnh (strong force). Hơn nữa, nếu hằng số hấp dẫn (gravitational constant) chỉ sai biệt trên 1/1060, cả thế giới vật chất sẽ sụp đổ ngay lập tức sau khi mới h́nh thành, hoặc mọi vật sẽ văng xa khỏi nhau làm cho vũ trụ không đủ mật độ cần thiết cho sự sống như đang có hiện nay. Nếu lực điện từ (electro-magnetic force) chỉ xê dịch khoảng 1/1040, các hành tinh trong vũ trụ với lượng vật chất và dung tích vừa đủ cho sự sống cũng không thể h́nh thành. Tương tự như vậy, có khoảng hai mươi lăm hằng số được coi là bất di bất dịch trong các định luật vật lư căn bản của vũ trụ. Nếu một trong những hằng số này chỉ xê dịch trên 1/1037, thế giới sẽ không thể nảy sinh hoặc duy tŕ sự sống. Ngay cả những khoa học gia hoài nghi nhất, như Stephen Hawking của đại học Cambridge, cũng phải công nhận ư nghĩa tôn giáo của các định luật vật lư. Trong tác phẩm nổi tiếng "Stephen Hawking's Universe", ông đă tuyên bố "Tỷ lệ nghịch với khả năng thế giới vật chất hiện nay ra từ một vụ nổ lớn chỉ bởi t́nh cờ thật là khổng lồ. Tôi nghĩ chắc phải có nguyên nhân sâu xa có tính cách tôn giáo."

Ngay cả sự h́nh thành và cấu tạo của quả địa cầu cũng là một huyền nhiện lớn lao trong thế giới vật chất. Thượng tầng khí quyển chứa đựng khối lượng và độ dày vừa đủ của màn ozone ngăn chặn bức xạ tuyến (cosmic radiation) độc hại nhưng cho phép ánh sáng thích hợp xuyên qua để duy tŕ sự sống. Trọng lượng, nhiệt độ, và trục nghiêng của trái đất cho phép dưỡng khí tồn tại và điều ḥa thời tiết cần thiết cho sự sống được duy tŕ và phát triển một cách nhịp nhàng. Hoạt động của núi lửa, khối lượng và nhiệt độ của lượng nước trong ḷng đại dương bảo tŕ độ ẩm và điều ḥa nhiệt độ cho sự sống của tinh cầu. Nhà khoa học Paul Davies, trong tác phẩm bán chạy nhất "The Mind of God", cho rằng thế giới chúng ta đang sống là một thế giới có mục đích, và là thế giới đầy sáng tạo." Ông công nhận đă bị thuyết phục bởi người thợ vẽ kiểu của thế giới này.

Nói tóm lại, những nghiên cứu và phát minh khoa học trong những thập niên cuối của thế kỷ hai mươi và đầu thế kỷ hai mươi mốt đă cho thấy cả thế giới vật chất, từ những thiên hà lớn lao, xa xôi nhất trên không trung, cho đến những tế bào sống li ti trên mặt đất, được thiết kế một cách kỳ diệu bởi một Đấng Sáng tạo khôn ngoan tuyệt đối. Có lẽ không phải ngẫu nhiên những thành tựu vĩ đại nhất của loài người đă bày tỏ sự hiện hữu của một Đấng Sáng tạo. Phải chăng đó chính là mục đích quan trọng và cao cả của Đấng Sáng tạo đă bày tỏ chính Ngài qua nền khoa học văn minh hiện đại khi nhân loại bước sang ngưỡng cửa của thiên niên kỷ mới? Đối với các tín hữu Cơ Đốc, sự hiện hữu và bản thể của Đấng Sáng tạo, cũng như công cuộc sáng tạo và chương tŕnh cứu chuộc vĩ đại của Ngài dành cho nhân loại, đă được mặc khải một cách rơ ràng qua Thánh kinh và qua sự hiện thân của Chúa Cứu thế Giê xu. Có phải chăng những thành tựu của khoa học trong những thập niên gần đây bày tỏ sự khôn ngoan siêu việt của Đấng Tạo Hóa là một trong những dấu hiệu quan trọng báo trước sự trở lại trong vinh quang của Đấng Cứu rỗi như đă được dự ngôn trong Thánh kinh cách đây gần hai thiên niên kỷ?

Nguyễn Lê Ân-Điển, Ph.D.
San Jose 01/11/2003

Tài liệu tham khảo

Behe, Michael, Darwin's Black Box (New York: Simon and Schuster, 1996)
Boslough, John, Stephen Hawking's Universe (New York: Harper & Row, 1979).
Darwin, Charles, The Origin of Species (New York: Collier Books, 1962)
Davies, Paul, The Fifth Miracle (New York: Simon and Schuster, 1999)
Davies, Paul, The Mind of God (New York: Simon and Schuster, 1992)
Denton, Michael, Evolution: A theory in Crisis (Maryland: Adler and Adler, 1985)
Ross, Hugh, The Creator and the Cosmos, Creation and Time (Colorado Springs: NavPress, 1993)